Khép kín đê Vũng Tàu - Gò Công, tạo hồ nước khổng lồ 2,5 tỷ m3 ven biển

Biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng và tình trạng lún sụt đất đang khiến vùng Đồng Tháp Mười và cả TP.HCM đối mặt với 3 sức ép cùng lúc. Đó là xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt và úng ngập ngày càng nặng.

Những cơn mưa cực đoan trên lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn, kết hợp triều cường dâng cao từ biển Đông đã tạo ra một sức ép kép đè nặng lên hệ thống thoát nước vốn đã quá tải của TP.HCM, khiến nguy cơ ngập lụt trong những năm tới gần như là điều khó tránh.

Trước sự gia tăng của ngập úng do lũ và triều, năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN-PTNT), nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình Chính phủ phê duyệt Quy hoạch thủy lợi chống ngập úng cho TP. HCM. Quy hoạch chia thành phố và vùng phụ cận thành 3 vùng chính.

Vùng I là khu vực nội thành cũ nằm bên hữu sông Sài Gòn - Nhà Bè, nơi tập trung dân cư và hạ tầng quan trọng nhất, được xem là “trái tim” của quy hoạch.

Vùng II trải dọc khu vực ngã ba sông Đồng Nai - Sài Gòn, giữ vai trò trung gian trong điều tiết lũ và triều.

Vùng III thuộc phía tả sông Nhà Bè - Soài Rạp, được xác định như một vùng đệm đa chức năng, với diện tích tiêu thoát nước hơn 200.000 ha.

Do hạn chế về kinh phí, TP. HCM mới thực hiện được phần cốt lõi nhất của quy hoạch là xây dựng hệ thống đê bao kết hợp cống và trạm bơm bao quanh vùng lõi diện tích khoảng 50.000 ha. Giải pháp này giúp giảm ngập cục bộ nhưng chưa đủ sức chống lại những biến động ngày càng lớn của lũ và triều.

Cùng lúc đó, để bảo vệ nguồn nước ngọt và tăng khả năng tiêu thoát cho vùng Đồng Tháp Mười, năm 2005, Bộ NN-PTNT từng cho nghiên cứu tiền khả thi cống Vàm Cỏ rộng 800 m. Công trình được kỳ vọng là “cửa ngăn mặn - trữ ngọt” lớn của vùng nhưng do thiếu nguồn vốn nên đến nay vẫn chưa thể triển khai.

Trong bối cảnh nhiều giải pháp cục bộ không còn theo kịp nhịp biến đổi của khí hậu, các chuyên gia bắt đầu tìm kiếm một lời giải mang tính tổng thể hơn.

GS.TS Đào Xuân Học, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, cho biết, ý tưởng xây dựng tuyến đê biển Vũng Tàu - Gò Công ra đời chính từ yêu cầu đó, một phương án có thể đồng thời ứng phó lũ thượng nguồn, mưa lớn và triều cường. Dự án được đặt trên nền tảng của quy hoạch thủy lợi vùng Đồng Tháp Mười và TP. HCM, cùng với khả năng về kỹ thuật và công nghệ hiện tại của Việt Nam.

Mục tiêu lớn nhất khi xây dựng đê biển Vũng Tàu - Gò Công là chống lũ lụt, ngập úng và xâm nhập mặn cho toàn vùng TP. HCM. Video: Lê Bình.

Tuyến đê biển này, nếu được xây dựng, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vùng hạ du hệ thống sông Đồng Nai và một phần Đồng Tháp Mười. Mục tiêu lớn nhất là chống lũ lụt, ngập úng và xâm nhập mặn cho toàn vùng TP. HCM trong cả trước mắt và dài hạn, kể cả trong kịch bản mực nước biển dâng thêm 1 mét. Đồng thời, công trình sẽ tăng khả năng thoát lũ, giảm độ sâu và thời gian ngập, bảo vệ vùng sản xuất của Đồng Tháp Mười trước xâm nhập mặn, và tạo lá chắn vững vàng cho Gò Công, Tây Ninh và toàn bộ khu vực ven biển.

Xa hơn, khi môi trường nước ổn định trở lại, không gian phía trong tuyến đê có thể trở thành một hồ chứa nước ngọt quy mô lớn cho toàn vùng Đồng Tháp Mười. Đây sẽ là nguồn dự phòng an toàn trong trường hợp dòng chảy thượng nguồn biến động do các hồ thủy điện hoặc những thay đổi khó lường từ các quốc gia ở lưu vực trên.

Bên cạnh nhiệm vụ phòng chống thiên tai, dự án còn được kỳ vọng mở ra trục giao thông mới, rút ngắn 130 km đường từ các tỉnh miền Tây đến khu vực Vũng Tàu. Qua đó tạo động lực hình thành chuỗi đô thị - công nghiệp - dịch vụ mới và là cơ sở để phát triển hệ thống cảng biển, năng lượng gió, năng lượng mặt trời trong tương lai. Một phần đất hình thành từ quá trình lấn biển và 50% diện tích mặt hồ có thể được khai thác làm nguồn thu để đầu tư vào tuyến đê, giảm gánh nặng ngân sách, nhà nước chỉ cần đóng góp khoảng 15% vốn đầu tư cho giai đoạn đầu.

GS.TS Đào Xuân Học cho biết, tuyến đê biển Vũng Tàu - Gò Công được hình dung như một dải chắn khổng lồ nối từ Gò Công vươn thẳng ra biển, rồi men theo mép sóng đến vị trí cách khu vực Vũng Tàu chừng 5 km, trước khi kết nối vào rừng ngập mặn Cần Giờ bằng một tuyến đê nhỏ hơn. Tuyến đê chính dài 28 km, với mặt đê rộng 30 m, đứng trên vùng nước có độ sâu trung bình khoảng 5,5 m.

Ở vị trí trung tâm của tuyến đê sẽ có một cống kiểm soát triều và thoát lũ rộng tới 2.000 m, là một kết cấu quy mô chưa từng có tại Việt Nam. Cống được đặt trên cao trình đáy -10 m, kết hợp với âu thuyền đủ sức cho tàu 30.000 tấn qua lại, bảo đảm giao thông thủy được duy trì bình thường. Phía trên, một cây cầu rộng 22,4 m sẽ nối trực tiếp tuyến đê với Vũng Tàu, để mọi luồng tàu bè có thể tiếp tục đi vào vịnh Gành Rái mà không bị gián đoạn.

Từ đầu cầu trên tuyến đê chính, một nhánh đê phụ dài 13 km rẽ vào vùng Cần Giờ. Chạy men theo nhánh đê này là dải đất rộng khoảng 1.000 m, phần không gian dự kiến dành cho cơ chế xã hội hóa, có thể đổi đất lấy vốn xây dựng tuyến đê. Độ sâu nước khu vực này chỉ khoảng 4 m, thuận lợi để hình thành vùng hồ nước trong tương lai. Tính toán cho thấy khi tuyến đê khép kín, diện tích mặt hồ mới sẽ vào khoảng 43.000 ha, nếu tính cả diện tích các sông liên thông là 50.000 ha, với dung tích xấp xỉ 2,5 tỷ m3.

Một cống kiểm soát triều nữa cũng được đề xuất xây dựng tại sông Lòng Tàu, rộng 200 m, đáy đặt ở cao trình -12 m, kèm theo âu thuyền cho tàu 20.000 tấn, nhằm bảo đảm tính thông suốt của giao thông thủy và tăng tính linh hoạt cho việc điều tiết nước.

Để ngăn triều từ rừng ngập mặn Cần Giờ tràn ngược vào hồ, một tuyến bờ bao ven hồ và dọc theo sông Soài Rạp - Nhà Bè sẽ cần được xây dựng với tổng chiều dài 60 km và cao trình từ 0,5-1 m. Một đập đất cũng sẽ được bố trí tại rạch Đồng Tranh để ngăn dòng triều len sâu vào nội vùng.

Khi tuyến đê hình thành, không gian địa lý toàn khu vực sẽ mở ra những cơ hội hoàn toàn mới. Dọc theo mặt hồ và tuyến đê dự kiến sẽ xuất hiện 5 cụm đô thị mới: đô thị Vũng Tàu mở rộng, đô thị sinh thái Cần Giờ, đô thị sinh thái nằm dọc nhánh đê phụ, đô thị khoa học biển và đô thị dịch vụ - kinh tế biển. Đây sẽ là chuỗi không gian đô thị - kinh tế - sinh thái tạo thành một cực tăng trưởng mới của khu vực phía Nam.

Theo thiết kế, trong điều kiện bình thường, khi thượng nguồn không xả lũ, cống trên tuyến đê chính sẽ được mở hoàn toàn, cho phép mực nước trong hồ lên xuống tự nhiên theo con triều nhưng vẫn luôn thấp hơn khoảng 1 mét so với mực triều ngoài biển. Một số thời điểm triều cường, hệ thống cống ở đê biển và ở Lòng Tàu sẽ được điều tiết để duy trì mực nước trong sông và hồ ở mức an toàn. Dù cống đóng hay mở, tàu thuyền vẫn được ưu tiên lưu thông, không bị cản trở trong bất kỳ thời điểm nào.

Với chức năng chống lũ, các mô phỏng thủy lực cho thấy ngay cả trong trường hợp xảy ra lũ thượng nguồn với chu kỳ 200 năm, tức dạng lũ cực lớn, kết hợp trận lũ tương đương năm 2000 tại Đồng Tháp Mười, tuyến đê biển Vũng Tàu - Gò Công vẫn có thể duy trì mực nước thấp, đủ để tiêu thoát nước cho TP. HCM.

Khả năng này được đảm bảo ổn định cho tới khi nước biển dâng thêm 1 mét. Trong điều kiện nước biển dâng 50 cm, tiêu chuẩn chống ngập cho thành phố vẫn đạt yêu cầu trong khoảng 70 năm tới và với nước biển dâng 35 cm, thời gian đáp ứng đạt khoảng 50 năm, theo đúng các kịch bản được Bộ NN-PTNT đưa ra.

GS.TS Đào Xuân Học cho rằng một lợi ích lớn khác của dự án là quỹ đất khi với diện tích mặt hồ mới lên tới 43.000 ha, có thể dành khoảng 3.000 ha để tôn nền, thêm 20.000 ha mặt nước để phát triển đô thị nổi, du lịch, dịch vụ và các mô hình kinh tế mới.

Khi tuyến đê khép kín, những vùng trũng thấp rộng từ 5.000 - 8.000 ha hiện vẫn bị bỏ không hoặc canh tác kém hiệu quả ở TP. HCM và Tây Ninh sẽ nhanh chóng trở thành vùng đất ổn định, thích hợp cho phát triển đô thị an toàn, bền vững.

Phần hồ còn lại, khoảng 20.000 ha, có thể được bố trí thành các không gian thoáng, công viên mặt nước hoặc chia ô để lắp đặt năng lượng mặt trời, tạo nguồn điện sạch phục vụ các khu đô thị mới.

Trong bối cảnh thượng lưu ngày càng có nhiều hồ thủy điện và biến động khí hậu khiến dòng chảy suy giảm, một hồ trữ nước 2,5 - 3 tỷ m3 gần như sẽ trở thành “két dự trữ an ninh nguồn nước” cho cả nửa vùng đồng bằng. Ở nhiều kịch bản, dung tích này tương đương một hồ chứa lớn xây dựng trên núi nhưng không phải đánh đổi 20.000 ha đất rừng, là điều mà bất cứ quốc gia nào hiện nay cũng phải cân nhắc rất kỹ.

Theo GS.TS Đào Xuân Học, khi đặt lên bàn cân giữa chi phí đầu tư và những lợi ích lâu dài, dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công cho thấy hiệu quả vượt trội.

Tổng mức đầu tư khoảng 74.000 tỷ đồng, được chia thành 3 giai đoạn phù hợp với diễn biến nước biển dâng trong nhiều thập kỷ tới. Giai đoạn đầu, với mức đầu tư 46.000 tỷ đồng để xây dựng tuyến đê và cống rộng 1.000 m, bảo đảm an toàn cho đến khi mực nước biển tăng thêm 35 cm, một quãng thời gian được dự báo khoảng 50 năm nữa.

Giai đoạn hai, khi cần mở rộng khẩu độ cống thêm 1.000 m, sẽ yêu cầu khoảng 18.000 tỷ đồng và giúp hệ thống phát huy tác dụng đến mức nước biển dâng thêm 50 cm, tức khoảng 70 năm sau.

Giai đoạn cuối, xây dựng cống rộng 200 m và âu thuyền trên sông Lòng Tàu với kinh phí 10.000 tỷ đồng, nhằm bảo đảm an toàn khi mực nước biển tăng 1m, một kịch bản có thể đến trong hơn một thế kỷ nữa.

Khi đê biển hình thành, lợi ích mang lại cho TP.HCM được đánh giá rất lớn. Khoảng 8.000 ha vùng trũng thấp vốn thường xuyên ngập sẽ được khai thác hiệu quả hơn, hạn chế thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp, giảm sạt lở bờ bao và giảm úng ngập cho hạ tầng dân sinh. Những chi phí vô hình do ngập từ thiệt hại kinh tế tới gánh nặng y tế, cũng được cắt giảm đáng kể. Với Đồng Tháp Mười, công trình giúp mở rộng diện tích sản xuất, cải tạo đất phèn, bảo vệ mùa vụ và giảm chi phí bơm tát mỗi mùa lũ.

Không chỉ chống ngập, tuyến đê còn mở ra một trục giao thông hoàn toàn mới, rút ngắn quãng đường từ TP. HCM tới khu vực Vũng Tàu, hay từ miền Tây ra biển, thêm tới 130 km. Khi đó, hiệu ích thuần mang lại từ giao thông - du lịch - thương mại sẽ trở thành một dòng lực mới thúc đẩy phát triển.

Việc xây dựng đê biển và hệ thống cống trên thực tế có tác động đến tuyến giao thông thủy quan trọng bậc nhất cả nước, nơi tàu thuyền ra vào các cảng lớn như Sài Gòn hay Cát Lái.

Tuy nhiên, mọi tác động này đều đã được tính toán theo lộ trình dài hạn. Phải đến khoảng 70 năm nữa, khi xây dựng cống trên sông Lòng Tàu, hoạt động vận tải thủy mới chịu ảnh hưởng nhất định. Nhưng ngay cả khi đó, tàu thuyền vẫn có thể qua lại an toàn, trừ những thời điểm hiếm hoi phải xả lũ cực lớn từ thượng nguồn với tần suất 30 năm một lần. Kể cả trong kịch bản lũ 200 năm mới xuất hiện một lần, tàu thuyền vẫn có thể đi qua cống trong khoảng 4,5 giờ mỗi ngày.

Công nghệ điều khiển cống và âu thuyền hiện nay cũng cho phép vận hành linh hoạt, gần như không gây ách tắc giao thông thủy. Với những tàu trọng tải 30.000 tấn, thời gian di chuyển qua âu thuyền chỉ từ 10 đến 20 phút, một con số nhỏ so với lợi ích mà công trình mang lại cho an toàn an ninh nguồn nước, chống ngập và phát triển bền vững của toàn vùng.

Phạm Hiếu - Minh Phúc
Trọng Toàn
Phạm Hiếu - Tùng Đinh - Lê Bình - Minh Phúc
Lê Bình

Tin liên quan

Đê biển Vũng Tàu - Gò Công: Cần nghiên cứu kỹ tác động môi trường

Đê biển Vũng Tàu - Gò Công: Cần nghiên cứu kỹ tác động môi trường

Trao đổi với NNVN, GS.TS Nguyễn Ân Niên, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam cho rằng:

Dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công: Người trong cuộc nói gì?

Dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công: Người trong cuộc nói gì?

GS.TS Trần Đình Hòa, Phó Viện trưởng Viện Thủy công (Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam), chủ nhiệm đề tài nghiên cứu công trình đê biển Vũng Tàu – Gò Công từ năm 2010 – 2012 khẳng định:

'Tôi tán thành giải pháp làm đê biển Vũng Tàu - Gò Công'

'Tôi tán thành giải pháp làm đê biển Vũng Tàu - Gò Công'

Làm thế nào để giải quyết ngập lụt một cách toàn diện, triệt để và lâu dài cho TP.HCM đang là mối quan tâm của nhiểu chuyên gia đầu ngành về thủy lợi. Báo NNVN đã có buổi trao đổi với GS.TS Lê Mạnh Hùng, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi, quanh vấn đề này.

Lật lại dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công

Lật lại dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công

Chúng tôi xin ghi lại một số quan điểm của các nhà khoa học, nhà quản lí đã từng đóng góp cho dự án đê biển này hồi năm 2012, khi nó vừa mới được Bộ NN-PTNT đề xuất.

Xem thêm