

Ông Phạm Anh Tuấn, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, ở giai đoạn đầu những năm 2000, Bộ Thủy sản đã xây dựng Đề án phát triển nuôi cá rô phi giai đoạn 2003 - 2010 với hai mục tiêu rõ ràng: Đến năm 2010, Việt Nam có thể sản xuất được 200.000 tấn cá rô phi, trong đó khoảng 50% dành cho xuất khẩu, đạt giá trị 160 triệu USD.
Xét về quy mô và sản lượng, có thể nói Đề án đã cơ bản đạt được mục tiêu đề ra. Dù đến năm 2010 sản lượng chưa chạm mốc 200.000 tấn như kỳ vọng, nhưng con số thực tế cũng đã tiệm cận. Tuy nhiên, mục tiêu xuất khẩu thì không đạt được như kế hoạch.
Lý giải nguyên nhân khiến mục tiêu xuất khẩu cá rô phi trong giai đoạn 2003 - 2010 không đạt được, ông Tuấn phân tích, trước hết là do chất lượng con giống thời điểm đó chưa đảm bảo. Quan trọng hơn, khi Đề án được xây dựng, chúng ta thiếu các hành động, kế hoạch, bước đi cụ thể để hiện thực hóa mục tiêu. Những nội dung đưa ra mới chỉ dừng ở mức mong muốn, thiếu lộ trình rõ ràng.

Ví dụ, để xuất khẩu, cần phải chú ý đến hai vấn đề: Một là sản xuất được khối lượng lớn hàng hóa đồng đều trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, điều kiện sản xuất của chúng ta khi đó chủ yếu là nhỏ lẻ, manh mún, không có sự liên kết hay tổ chức sản xuất quy mô lớn - đây chính là rào cản đầu tiên.
Hai là, giá thành sản xuất cao cũng là vấn đề lớn. Khi con giống và thức ăn đều chưa tốt, chi phí sản xuất bị đội lên, khiến cá rô phi Việt Nam khó cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác.
Cuối cùng là bài toán thị trường. Là một quốc gia đi sau, nếu muốn xuất khẩu được sang các thị trường thế giới thì hoặc phải có giá bán cạnh tranh, hoặc sản phẩm phải có sự khác biệt rõ nét.
“Thời điểm đó, giống, thức ăn của chúng ta chưa tốt, doanh nghiệp thì không tham gia vào chuỗi, do đó dù Nhà nước mong muốn, nhưng lại thiếu các bước đi thiết thực để hiện thực hóa. Tất cả những yếu tố đó cộng lại khiến mục tiêu xuất khẩu cá rô phi khi ấy không thể đạt được”, ông Tuấn nhấn mạnh. Điều này cho thấy, dù có tiềm năng và định hướng từ sớm, nhưng thiếu hành động cụ thể và tổ chức sản xuất quy mô đã khiến cơ hội bị bỏ lỡ.



Ông Tuấn cho rằng, ở thời điểm hiện tại, Việt Nam đã hội tụ đủ điều kiện để đẩy mạnh nuôi và xuất khẩu cá rô phi. Về con giống, cả nguồn giống nội địa lẫn giống nhập khẩu đều đã đạt chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu sản xuất. Thức ăn cho cá cũng đã đảm bảo cả về số lượng lẫn công thức dinh dưỡng, giúp ổn định chi phí và nâng cao hiệu quả nuôi.

Quan trọng hơn, hiện đã có doanh nghiệp thực sự tham gia vào chuỗi giá trị xuất khẩu. Chỉ tính riêng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu cá rô phi đã đạt 41 triệu USD - một con số mang nhiều ý nghĩa. Đây là tiền đề quan trọng cho thấy, chúng ta đã sẵn sàng thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động xuất khẩu cá rô phi trong thời gian tới. Tuy nhiên, để biến cơ hội thành hiện thực, những hạn chế trước đây phải được khắc phục bằng chiến lược rõ ràng và hành động quyết liệt hơn.
Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), năm 2024, diện tích nuôi cá rô phi nước ta đạt khoảng 42.000 ha, sản lượng ước đạt 316.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 41 triệu USD.
Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Trần Đình Luân cho hay, hiện nay các ngành hàng từ nuôi trồng thủy sản dù sản lượng lớn nhưng hiệu quả kinh tế chưa cao do giá bán còn thấp, rủi ro dịch bệnh tăng… Theo đó, để tăng tính cạnh tranh và hiệu quả, việc đa dạng hóa đối tượng, phương thức nuôi mà Việt Nam có lợi thế, góp phần chuyển đổi cơ cấu, tăng giá trị và hiệu quả sản xuất là phù hợp với định hướng chiến lược phát triển ngành và mục tiêu của Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030 là cần thiết.
Trong các đối tượng thủy sản có tiềm năng thì cá rô phi hội tụ các điều kiện phát triển như: Có tiềm năng lớn để tăng sản lượng; nhu cầu thị trường trong và ngoài nước tăng nhanh; nuôi cá rô phi kết hợp hoặc luân canh với tôm nước lợ không những tạo sản phẩm cá rô phi chất lượng cao mà còn góp phần kiểm soát dịch bệnh trên tôm nuôi và phù hợp trong bối cảnh Việt Nam chịu tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng kéo theo gia tăng xâm nhập mặn…
Cũng theo ông Luân, thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong nghiên cứu, tổ chức sản xuất cá rô phi, nhờ vậy diện tích nuôi, năng suất và sản lượng cá rô phi tăng nhanh. Một số doanh nghiệp đã tiên phong phát triển nuôi cá rô phi xuất khẩu; tuy sản lượng xuất khẩu còn thấp nhưng bước đầu mở rộng được thị trường, tạo động lực tăng sản lượng cá rô phi trong nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong tổ chức sản xuất, hạ tầng vùng nuôi, chất lượng sản phẩm và giống cá…, nên chưa tạo được sản lượng cá rô phi hàng hóa chất lượng cao.




Theo báo cáo của Futuremarketinsights, thị trường cá rô phi toàn cầu được dự báo sẽ tăng trưởng từ 15,14 tỷ USD vào năm 2025 lên 24,22 tỷ USD vào năm 2035, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 4,8%. Thị trường cá rô phi toàn cầu đang chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể, được thúc đẩy bởi một số yếu tố chủ chốt.
Một trong những động lực chính là nhu cầu ngày càng gia tăng đối với các nguồn protein có giá cả phải chăng và bền vững. Cá rô phi, nổi tiếng với hương vị nhẹ, dễ chế biến trong nhiều món ăn, mang lại sự lựa chọn tiết kiệm hơn so với nhiều loài cá khác. Với hàm lượng protein cao cùng các dưỡng chất thiết yếu như axit béo omega-3, cá rô phi ngày càng trở thành lựa chọn hấp dẫn cho người tiêu dùng quan tâm đến sức khỏe và muốn có bữa ăn dinh dưỡng với chi phí hợp lý.
Tiến bộ trong kỹ thuật nuôi trồng thủy sản cũng góp phần mở rộng thị trường. Các đổi mới trong lai tạo giống, tối ưu hóa thức ăn và kiểm soát dịch bệnh đã nâng cao hiệu quả nuôi, giúp tăng năng suất và chất lượng cá. Nhờ vậy, người nuôi có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thế giới mà vẫn duy trì phương thức sản xuất bền vững.


Song song với đó, sự phát triển của các dòng cá rô phi lai tạo di truyền mang lại tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và khả năng kháng bệnh tốt hơn, giúp việc nuôi cá rô phi hiệu quả hơn về kinh tế và thu hút thêm nhà đầu tư cũng như người mới gia nhập ngành.
Ngoài ra, chính sách hỗ trợ của các chính phủ và ưu đãi xuất khẩu cũng là động lực thúc đẩy thị trường. Nhiều quốc gia nhận thấy tiềm năng của ngành nuôi cá rô phi trong đảm bảo an ninh lương thực và phát triển kinh tế, từ đó triển khai các chương trình nghiên cứu, đào tạo người nuôi nhằm nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Các ưu đãi xuất khẩu không chỉ mở rộng thị trường quốc tế mà còn góp phần ổn định nguồn cung thực phẩm toàn cầu, đặc biệt ở những khu vực khan hiếm protein.
Đáng chú ý, ngành cá rô phi đang chứng kiến xu hướng cao cấp hóa sản phẩm. Doanh nghiệp tập trung phát triển các dòng sản phẩm đặc biệt và cao cấp để phục vụ nhóm người tiêu dùng sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho sự độc đáo, khác biệt như cá rô phi hữu cơ hoặc sản phẩm cắt lát đặc sản. Xu hướng này phản ánh sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng hướng đến trải nghiệm ẩm thực tinh tế, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh trong thị trường đông đúc. Điều này cũng đặt ra yêu cầu Việt Nam phải sớm định vị, nâng tầm sản phẩm để bắt kịp xu thế chung.


Mặc dù thị trường toàn cầu rộng mở, để cá rô phi Việt Nam tận dụng được cơ hội này, cần phải giải quyết đồng thời nhiều thách thức.
Một chuyên gia thủy sản nhận định, ngành hàng cá rô phi Việt Nam hiện đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển quan trọng. Trước hết, Việt Nam có thể tận dụng lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương (FTAs) để mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Là một ngành hàng còn mới, cá rô phi Việt Nam có điều kiện thuận lợi để xây dựng thương hiệu mạnh, định vị sản phẩm chất lượng cao gắn với mục tiêu phát triển bền vững, từ đó biến lợi thế thương hiệu thành ưu thế cạnh tranh về giá ngay từ giai đoạn đầu.
Thêm vào đó, Việt Nam đã hình thành được những tập đoàn sản xuất giống cá rô phi khá tốt, cần tiếp tục phát huy năng lực sản xuất giống nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu. Lợi thế tự nhiên và điều kiện sinh thái phù hợp cũng tạo tiền đề quan trọng để phát triển ngành nuôi cá rô phi.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chế biến trong nước khá linh hoạt trong việc chuyển đổi năng lực sản xuất từ các mặt hàng truyền thống sang cá rô phi, kết hợp với kinh nghiệm xuất khẩu thủy sản lâu năm, giúp Việt Nam có thêm nền tảng để thúc đẩy xuất khẩu cá rô phi trong thời gian tới.
Về thị trường, bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho hay, với việc phải chịu mức thuế đối ứng cao, cá rô phi Trung Quốc gặp nhiều khó khăn vào thị trường Hoa Kỳ. Nhờ đó, cá rô phi Việt Nam có cơ hội lớn để trỗi dậy, mở rộng xuất khẩu. Chỉ trong nửa đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu cá rô phi của nước ta đã đạt 49,5 triệu USD - vượt cả kết quả của cả năm 2024 và tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ năm trước. Đây là tín hiệu hết sức khả quan cho ngành hàng này.
Tuy nhiên, cùng với cơ hội, ngành cá rô phi Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều trở ngại. Trước hết, Việt Nam là quốc gia mới tham gia thị trường xuất khẩu cá rô phi nên phải cạnh tranh gay gắt với các nước xuất khẩu lâu năm. Hiện vẫn chưa hình thành được các vùng nguyên liệu tập trung, khiến việc đáp ứng yêu cầu về chất lượng và sản lượng nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu gặp khó khăn. Giá mua nguyên liệu trong nước cũng cao hơn khoảng 5.000 đồng/kg so với nguyên liệu từ Trung Quốc, làm giảm sức cạnh tranh.
Dù cá rô phi Việt Nam được đánh giá là có chất lượng cao song nhưng còn thiếu các chương trình xây dựng thương hiệu quốc gia. Thị trường nội địa vẫn là trọng tâm tiêu thụ, trong khi xuất khẩu chỉ mới ở giai đoạn khởi đầu. Bên cạnh đó, năng lực chế biến còn hạn chế và chủ yếu tập trung tại khu vực ĐBSCL, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển xuất khẩu quy mô lớn.
Cùng quan điểm, ông Tuấn cho rằng, vướng mắc lớn nhất hiện nay là bài toán tổ chức sản xuất để đảm bảo đủ nguồn nguyên liệu. Khó khăn của doanh nghiệp nằm ở chỗ không có sẵn vùng nuôi nguyên liệu ổn định, và không phải doanh nghiệp nào cũng sở hữu hệ thống trang trại đủ lớn để tự cung cấp. Vì vậy, bắt buộc phải dựa vào lực lượng nông dân, cần có cơ chế liên kết và tổ chức sản xuất chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp. Đây là vấn đề then chốt mà ngành cá rô phi cần đặc biệt quan tâm để phát triển bền vững.
Ông cũng nhấn mạnh rằng, những ưu đãi thuế quan trong xuất khẩu chỉ mang tính ngắn hạn. Để cạnh tranh bền vững trên thị trường quốc tế, ngành cá rô phi Việt Nam cần tập trung vào hai yếu tố cốt lõi: Giá thành phải cạnh tranh và sản phẩm phải khác biệt.
Đồng thời, trong giai đoạn đầu, cần những bước đi thật vững chắc. Cụ thể, cần ưu tiên hỗ trợ những doanh nghiệp đã có đơn hàng xuất khẩu để họ tổ chức sản xuất hiệu quả hơn, xây dựng chuỗi liên kết bền vững và hướng tới tạo ra giá trị khác biệt. Ngoài ra, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất và chế biến cũng là yếu tố quyết định để nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu.



Quyết định số 1639/QĐ-BNN-TCTS của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) về quy hoạch phát triển nuôi cá rô phi đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã đặt mục tiêu phát triển nuôi cá rô phi thành ngành sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả, bền vững với sản phẩm đa dạng, giá trị cao để đáp ứng thị trường xuất khẩu và tiêu thụ trong nước; sản xuất đủ con giống chất lượng cao cung cấp cho nuôi thương phẩm, môi trường dịch bệnh trong sản xuất được kiểm soát tốt; góp phần tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân.
Định hướng đến năm 2030, diện tích nuôi cá rô phi đạt 40.000 ha và 1.800.000 m³ lồng nuôi trên hệ thống sông và hồ chứa lớn; trong đó 40 - 45% diện tích nuôi theo hướng thâm canh và 20 - 25% diện tích nuôi trong ao đầm nước lợ theo hình thức nuôi đơn hoặc kết hợp với các đối tượng khác.
100% diện tích vùng nuôi cá rô phi tập trung được áp dụng quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt Việt Nam (VietGAP) hoặc các tiêu chuẩn tiên tiến khác của các nước nhập khẩu.
Sản lượng cá rô phi đạt 400.000 tấn, trong đó 45 - 50% sản lượng cá rô phi phục vụ xuất khẩu. Sản xuất đáp ứng được 100% nhu cầu về số lượng và chất lượng con giống sạch bệnh phục vụ nuôi thương phẩm. Tạo công ăn việc làm cho khoảng 67.500 lao động trực tiếp và 8.000 lao động gián tiếp.
Một chuyên gia thủy sản có nhiều kinh nghiệm trong ngành cho rằng, để đạt được các mục tiêu trên và đưa ngành cá rô phi nước ta thực sự bứt phá, Việt Nam cần nâng tầm cá rô phi thành sản phẩm chủ lực chỉ sau tôm và cá tra. Chính sách phát triển phải đi trước, thay vì để sản phẩm tự phát triển rồi mới xây dựng chính sách, gây ra độ trễ trong quản lý và hỗ trợ. Trong quá trình phát triển sản phẩm cá rô phi, cần lấy sản phẩm đông lạnh làm trung tâm, đồng thời thúc đẩy chế biến sâu, đảm bảo chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu.
Quay lại câu chuyện của đề án phát triển cá rô phi giai đoạn trước mới chỉ đạt mục tiêu về sản lượng, chưa đạt mục tiêu về xuất khẩu, ông Tuấn chỉ ra nguyên nhân then chốt là chưa thu hút được doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi. Việc thiếu vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp đã khiến chuỗi giá trị không hoàn thiện, hạn chế khả năng mở rộng ra thị trường quốc tế.

Ông Tuấn nhấn mạnh rằng, về chính sách, cần tạm gác những tranh luận về vốn hay đất đai. Điều cấp thiết hơn là Nhà nước phải đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc tổ chức sản xuất, liên kết với nông dân để hình thành vùng nuôi tập trung, đáp ứng quy mô lớn cho xuất khẩu.
Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng giống, bên cạnh vai trò của Nhà nước, rất cần sự tham gia chủ động của doanh nghiệp. Những kết quả nghiên cứu và thành tựu về giống mà Nhà nước đã đạt được cần được chuyển giao hoặc hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, giúp họ không phải bắt đầu từ con số 0. Trong trường hợp tiềm lực khoa học công nghệ của doanh nghiệp còn hạn chế, cần có cơ chế kết nối với các viện nghiên cứu, đội ngũ chuyên gia để đồng hành và hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao chất lượng giống.
Ngoài ra, Nhà nước cũng cần cùng doanh nghiệp xây dựng và phát triển thương hiệu cá rô phi Việt Nam. Doanh nghiệp có thể triển khai các hoạt động quảng bá, nhưng Nhà nước đóng vai trò định hình chuẩn mực và tiêu chí thương hiệu, đồng thời cùng doanh nghiệp tổ chức sản xuất đáp ứng các tiêu chuẩn này, tạo nền tảng vững chắc cho việc phát triển thương hiệu bền vững trên thị trường quốc tế.
Ông Tuấn nhấn mạnh: “Cốt lõi của việc xây dựng thương hiệu hiện nay là phải xác định rõ hướng đi và cách thức triển khai. Cần làm rõ mục tiêu, cụ thể hóa các bước cần làm, chuyển thành kế hoạch hành động với sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan, đơn vị. Quan trọng nhất là phải triển khai thực chất, có lộ trình cụ thể, tránh chỉ dừng ở khẩu hiệu hay lời kêu gọi chung chung”.
Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Trần Đình Luân cũng khẳng định, đối với việc xuất khẩu cá rô phi, cần phải có tính toán ngay từ đầu, không làm theo kiểu “thích làm cái gì là gom đem bán”, tránh luẩn quẩn câu chuyện tự cạnh tranh nội tại và tự làm xấu hình ảnh con cá của chúng ta. “Quan trọng nhất là tiềm năng lợi thế có, chúng ta phải cùng nhau bắt tay làm”.
Ông Luân nói, cá rô phi hiện là một trong những tiềm năng và lợi thế quan trọng để Việt Nam đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường và gia tăng xuất khẩu. Cục Thủy sản và Kiểm ngư đang phối hợp chặt chẽ với các địa phương để hình thành những vùng nuôi nguyên liệu tập trung, gắn liền với hệ thống nhà máy chế biến, đặc biệt chú trọng đến việc đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của sản phẩm đầu ra.
“Để cá rô phi Việt Nam có thể chinh phục những thị trường khó tính, cần có sự đồng hành chặt chẽ giữa người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý địa phương. Chỉ khi xây dựng được mối liên kết bền vững và hiệu quả, chúng ta mới có thể khẳng định vị thế và nâng tầm thương hiệu quốc gia cho cá rô phi Việt Nam”, lãnh đạo Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư nhấn mạnh.
Hơn hai thập kỷ trôi qua, câu chuyện về cá rô phi vẫn là lời nhắc nhở rằng tiềm năng và lợi thế nếu không được cụ thể hóa bằng chiến lược và hành động đúng đắn thì sẽ mãi chỉ dừng ở kỳ vọng. Hiện nay, với nền tảng đã được xây dựng, cơ hội để cá rô phi trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực đang rõ rệt hơn bao giờ hết.
Điều còn lại là sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân và các cơ quan quản lý để hình thành vùng nguyên liệu tập trung, nâng cao chất lượng giống, hạ giá thành sản xuất và đặc biệt là xây dựng thương hiệu quốc gia vững mạnh. Chỉ khi thực hiện được điều này, cá rô phi Việt Nam mới thật sự bứt phá và khẳng định vị thế trên bản đồ thủy sản thế giới.