Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường, trò chuyện với Báo Nông nghiệp và Môi trường, nhà sử học Dương Trung Quốc tâm sự: Vào những ngày này, khi nghĩ về ngành, tôi nhớ mãi kỷ niệm với Giáo sư Nguyễn Xiển (1907 - 1997), Chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc bộ, Giám đốc Nha Khí tượng Việt Nam đầu tiên, một trí thức cách mạng đã có những đóng góp to lớn đối với công tác đê điều, phòng chống lụt bão thời kỳ đầu độc lập.

Nhà sử học Dương Trung Quốc. Ảnh: Tùng Đinh.
“Trước hết, chúng ta cần phải ghi nhớ, ngay sau khi giành được chính quyền, cùng với ứng phó với giặc đói, giặc dốt và sự thiếu thốn về tài chính, ứng phó với thù trong giặc ngoài, thì công việc được ưu tiên hàng đầu của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là hộ đê. Điều đó cho thấy vai trò hết sức quan trọng của công tác này đối với sự phát triển của đất nước trong suốt 80 năm qua”, nhà sử học Dương Trung Quốc kiến giải.
Trận chiến đầu tiên trên mặt trận đê điều
Ông Dương Trung Quốc kể: Năm 1997, chúng tôi đến thăm Giáo sư Nguyễn Xiển, lúc đó đã ngoài 90 tuổi và ít tháng sau đó thì ông mất. Ở tuổi ấy không ai dám nói là khỏe mạnh, nhưng ông cụ còn rất minh mẫn và đang ngồi viết cho Chủ tịch Quốc hội một bức thư, nhắn nhủ thông qua các vị đại biểu của dân, hãy nhớ đến những lời dạy của Bác Hồ về nhiệm vụ giữ đê để phòng lũ lụt.
Nguyên là Chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc bộ đầu tiên và Giám đốc Nha Khí tượng Việt Nam đầu tiên, hôm ấy, Giáo sư Nguyễn Xiển kể cho chúng tôi về những ngày đầu khi nước nhà mới độc lập, trận chiến đấu đầu tiên nhân dân sải cánh với Nhà nước cách mạng đã diễn ra trên mặt trận đê điều.

Giáo sư Nguyễn Xiển vinh dự được đứng cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Đoàn Chủ tịch kỳ họp Quốc hội năm 1957. Ảnh: Tư liệu.
Chuyện bắt đầu vào ngày 28/8/1945, mười ngày sau khi cách mạng giành được chính quyền ở Hà Nội, Ủy ban hành chính Bắc Bộ được thành lập và Hồ Chủ tịch giao cho ông Nguyễn Xiển đứng đầu, hai ngày sau được giao kiêm thêm chức Giám đốc Nha Khí tượng Việt Nam.
Chủ tịch - Giám đốc Nguyễn Xiển cùng với Ủy ban hành chính Bắc bộ đã bắt tay ngay vào việc tiếp quản bộ máy chính quyền cũ, thành lập các ủy ban hành chính các cấp từ tỉnh đến xã, thu nhận các công chức cũ đã tình nguyện ở lại phục vụ chính quyền cách mạng, đồng thời giải quyết các việc cấp bách trước mắt, trong đó có việc sửa chữa đê đập bị vỡ trong trận lũ lịch sử tháng 8/1945.
Theo các tài liệu lưu giữ, sau 15 ngày đêm “mưa tầm mưa tã ở khắp nơi chưa từng có”, trên toàn bộ hệ thống sông Hồng và hầu khắp các lưu vực sông vùng Bắc bộ đã xảy ra trận lũ lớn ngày 18/8/1945, làm vỡ một loạt đê như: đê Quảng Cư, đê Diêm Xuân, đê làng Lương Phúc, đê hữu ngạn sông Cầu, đê Đồng Lao, đê Bất Bạt, đê Hưng Nhân, đê Mỹ Lộc, đê tả ngạn sông Kinh Thầy… Đặc biệt, trên sông Thao và sông Lô, sông Hồng, các tuyến đê liên tiếp vỡ vào chiều và đêm 17/8 đến sáng 22/8.
Nước lụt làm ngập úng gần 70 vạn mẫu, tức non 1/3 diện tích lúa đã cấy ở Bắc bộ. Việc nhiều đoạn đê bị vỡ liên tiếp trong thời gian mười ngày, ngoài nguyên nhân mưa to kéo dài còn do tình hình chính trị giao thời lúc bấy giờ. Bộ máy cai trị thực dân Pháp bị Nhật lật đổ từ cuộc đảo chính ngày 9/3/1945, quân đội Nhật ở Đông Dương sắp phải giải giáp, Mặt trận Việt Minh chớp thời cơ chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Toàn bộ bộ máy hộ đê gần như bị tê liệt, mọi phương tiện giao thông liên lạc điện thoại, điện tín báo tin mưa và mực nước bị đình trệ. Thêm vào đó, còn có sự phá hoại của bọn phản động như ở Đồng Lao, Hà Đông…

Chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc bộ Nguyễn Xiển đi đôn đốc chống lụt. Ảnh: Tư liệu.
Ủy ban hành chính Bắc bộ đặt ra nhiệm vụ cấp bách là hạp long những chỗ đê vỡ để kịp cấy tái giá và bảo vệ vụ mùa tháng 10 năm đó. Việc tiếp theo là phải đắp thêm nhiều đê mới vòng quanh những chỗ đê bị vỡ, tu bổ, bồi trúc những chỗ đê xung yếu. Khối lượng công việc thật to lớn lại phải khẩn trương hoàn thành trước mùa nước năm 1946.
Tình hình Bắc bộ cũng như cả nước lúc đó khá phức tạp, nạn đói từ tháng Giêng đến tháng 7/1945 do Nhật, Pháp gây ra làm chết hai triệu đồng bào ta chưa dịu thì nạn lụt, vỡ đê ập đến làm nhân dân ta càng thêm khốn khổ. Nam bộ đã kháng chiến, thù trong giặc ngoài quấy phá, tài chính kiệt quệ…
Trước tình hình đó, muốn làm được công việc to lớn như trên, nếu không được nhân dân tích cực tham gia, giúp sức thì Chính phủ khó đi đến kết quả. Ủy ban hành chính Bắc bộ đã ra một kế sách và xin ý kiến Hồ Chủ tịch. Sau khi được Hồ Chủ tịch tán thành, Ủy ban hành chính Bắc bộ ra Thông tư số 105/PY ngày 26/12/1945 gửi ủy ban hành chính các tỉnh về việc đê điều.
Thông tư này chỉ rõ tình hình đê điều sau nạn lụt tháng 8/1945, những công việc đã làm như việc hạp long các đoạn đê đã bị vỡ, tổn phí cả tiền lẫn gạo ước chừng 2 triệu đồng tiền Đông Dương. Thông tư cũng đề ra công việc phải làm tiếp là đắp 10 đê mới, phí tổn chừng 6 triệu đồng, khối lượng đất đào, đắp chừng khoảng 1,5 triệu mét khối, không kể công tu sửa Đập Đáy.
Công việc này phải khởi công vào cuối tháng 11/1945 và hoàn thành trước mùa mưa năm 1946 để kịp chống giữ được với mực nước như xưa.

Kêu gọi sản xuất cứu đói ở Hà Nội. Ảnh: Tư liệu.
Quỹ thóc chữa đê và bằng khen đầu tiên của Nhà nước sau độc lập
Sau khi lấy ý kiến nhiều tỉnh và được Hồ Chủ tịch cho phép, Ủy ban hành chính Bắc bộ chủ trương "lập quỹ thóc chữa đê bổ vào diện tích sở hữu của từng điền chủ".
Kỹ sư Nguyễn Xiển đã đưa ra quan điểm đắp đê chống lụt không chỉ là việc của Nhà nước mà trước hết của những người có ruộng đất. Do vậy nguồn lực phải do đóng góp của các chủ đất nộp theo giá trị đất đai, nông dân nghèo không có đất thì đóng góp công sức, cho đấu thầu công trình để giảm nhẹ tài chính và nâng cao chất lượng công trình. Để làm nhanh và bảo đảm kỹ thuật, Ủy ban hành chính Bắc bộ chủ trương cho nhận thầu công việc đắp đê và các chủ thầu đã dùng thợ đấu được trả công bằng quỹ thóc chữa đê.
Về chủ trương đấu thầu, nhằm đả thông tư tưởng e ngại của một số tỉnh và các thầu khoán, Ủy ban hành chính Bắc bộ còn khuyến khích việc sử dụng các kỹ thuật viên công chính thời thuộc Pháp đã tự nguyện ở lại làm việc dưới quyền các ủy ban hành chính các cấp, không lĩnh lương.
Chủ trương này được trình lên Chính phủ và Kỹ sư Nguyễn Xiển rất lo sáng kiến của mình bị gạt bỏ vì có thể trái với nhiều giáo điều về cách mạng, nhưng rốt cuộc lại được Chủ tịch Hồ Chí Minh khích lệ. Người đã nói: “Thầu khoán tất nhiên là có bóc lột, nhưng thầu khoán đắp đê lúc này là yêu nước”.
Quỹ thóc chữa đê ra đời với quy định điền chủ dưới 3 mẫu Bắc bộ góp mỗi mẫu 1kg thóc, từ 3-10 mẫu 2kg thóc, từ 10 mẫu trở lên 3kg thóc. Các tỉnh lập sổ sách thu, miễn giảm đúng quy định, đúng kỳ hạn, vận chuyển, bảo quản, chống hà lạm... đều được quy định rõ ràng, hướng dẫn cụ thể.
Công cuộc đắp đê từ tháng 11/1945 đến tháng 5/1946 còn gặp khó khăn từ bọn Quốc dân đảng chống đối và phá hoại. Đầu năm 1946, Ủy ban hành chính Bắc bộ có cử đặc phái viên lên Việt Trì gặp bọn Quốc dân đảng để thương lượng việc tiến hành đắp đê. Lúc này, bọn chúng chiếm giữ một số thị trấn trên đường xe lửa Vĩnh Yên - Việt Trì - Phú Thọ - Yên Bái. Phái đoàn do đồng chí Trần Đăng Ninh dẫn đầu, có chuyên gia đê điều Đỗ Xuân Dung tham gia, đến Việt Trì thì bị chúng bắt giữ và có nguy cơ bị thủ tiêu, đồng chí Trần Đăng Ninh đã mưu trí dẫn đường cho đoàn trốn thoát.
Mặc dù bận trăm công nghìn việc, Bác Hồ luôn luôn quan tâm đến công việc sửa và đắp đê chống lụt, bảo vệ mùa màng, bảo vệ tài sản của nhân dân. Bác đã dành thì giờ cùng Chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc bộ về Nam Định (cũ) và Thái Bình (cũ) hô hào lập quỹ thóc đắp đê, ra tận công trường trực tiếp thăm hỏi, động viên đồng bào đắp đê Mỹ Lộc, Hưng Nhân. Cùng với sự hưởng ứng hăng hái, nhiệt tình cách mạng của nhân dân các địa phương có đê cùng sự đóng góp công của đồng bào các địa phương toàn Bắc bộ, việc sửa và đắp đê đã hoàn thành kế hoạch, đúng kỳ hạn, kịp thời trước mùa nước 1946.
Tháng 5/1946, trước khi bước vào mùa chống lụt đầu tiên, Chính phủ ra Sắc lệnh số 70 ngày 22/5/1946 thành lập Ủy ban Trung ương hộ đê ở Bắc bộ. Ủy ban có nhiệm vụ nghiên cứu, đề nghị mọi kế hoạch chống nạn lụt và kiểm soát việc bảo vệ đê điều, do Chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc bộ hoặc người đại diện chủ tọa và gồm "những nhà chuyên môn hoặc đủ kinh nghiệm do Chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc bộ cử ra".
Sắc lệnh số 70 còn ấn định những thể lệ đặc biệt để thưởng những người có công và phạt những người phạm lỗi trong công việc hộ đê và quyền phát lệnh "trưng thu, trưng dụng và trưng tập đất cát, hoặc vật liệu, dụng cụ cần dùng cho sự hộ đê". Nam, nữ từ 18 đến 35 tuổi đều có thể bị trưng tập đi hộ đê trong lúc nguy cấp. Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, có 4 Bộ trưởng các bộ Nội vụ, Giao thông - Công chính, Tư pháp và Xã hội.

Bác Hồ thị sát công tác đê điều và gặp gỡ đồng bào. Ảnh: Tư liệu.
Nhờ thi hành “sắc lệnh lịch sử” này, toàn dân và toàn quân ta, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, của Đảng và chính quyền cách mạng đã giành được thắng lợi trong việc chống lũ năm 1946 và các năm sau đó.
Từ năm 1946, Bộ Giao thông - Công chính đã nắm công tác đê điều. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, do điều kiện chiến trường bị chia cắt, để việc lãnh đạo kháng chiến được thuận tiện, cả nước chia thành nhiều khu, riêng Bắc bộ chia thành ba khu, mỗi khu có một Sở Giao thông - Công chính. Nhiệm vụ của Ủy ban hành chính Bắc bộ được phân cấp cho các khu.
Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, Ủy ban Trung ương hộ đê còn tồn tại. Trong hai năm 1947-1948, với tư cách là Chủ tịch Ủy ban Trung ương hộ đê Bắc bộ, ông Nguyễn Xiển đã có dịp đi bộ, đi xe đạp, đi thuyền về các tỉnh Liên khu 3 đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức hộ đê. Cùng với đó, Bộ trưởng Giao thông - Công chính Trần Đăng Khoa chăm lo tổ chức chữa đê và hộ đê ở Liên khu 4.
Sau Hiệp định Geneve năm 1954, để đề phòng nạn bão lụt kinh niên của miền Bắc, đặc biệt phải kịp thời chống bão lụt của năm 1955, Chính phủ đã thành lập Ban chỉ huy chống lụt, bão Trung ương, đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ, thường trực là Bộ trưởng Bộ Thủy lợi, Giám đốc Nha Khí tượng, Tổng cục trưởng Bưu điện, Giám đốc Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.
Ở cấp tỉnh, huyện, xã đều có ban chỉ huy chống lụt bão. Với kinh nghiệm đã có trong công tác đê điều, tổ chức phòng và chống lụt, trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, việc tổ chức chỉ huy chống lụt bão từ Trung ương đến cơ sở dần đi vào nề nếp trên quy mô toàn miền Bắc trước đây và trong cả nước sau này.
Tấm bằng khen đầu tiên mà Nhà nước Việt Nam độc lập do cụ quyền Chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng ký là cấp cho thành tích giữ đê phòng lụt
Người lính cảnh giới cho hạnh phúc của nhân dân
Sinh thời, Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến đê điều. Ngay từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám thành công, những năm đầu giải phóng miền Bắc và mãi mãi sau này, trước khi Bác đi xa thì một trong những điều quan tâm hàng đầu của Người là thường năm, cứ đến gần mùa mưa bão, dù có bận đến đâu, Bác cũng không quên nhắc nhở, kêu gọi đồng bào, cán bộ, bộ đội ra sức đắp đê thật vững chắc, quyết tâm phòng và chống lụt, bão để bảo vệ sản xuất, bảo vệ tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Năm 1955, mùa mưa bão đầu tiên ngay sau giải phóng Thủ đô, Bác đã gửi thư (1/6/1955) cho nhân dân và cán bộ các tỉnh có đê, Người ân cần dặn: “Thân ái gửi đồng bào và cán bộ những tỉnh có đê. Mùa mưa sắp đến. Lâu ngày hạn hán, năm nay có thể lụt to. Chúng ta phải tỉnh táo đề phòng mọi bất trắc, quyết không được chủ quan. Chúng ta phải ra sức đắp đê và giữ đê, phòng lụt và chống lụt, để bảo vệ mùa màng và tài sản của nhân dân… Lũ lụt năm ngoái đã gây ra cho ta nhiều khó khăn, chúng ta phải nhớ bài học đau xót ấy. Tôi thiết tha kêu gọi đồng bào và cán bộ ra sức đắp đê cho vững chắc... quyết tâm chống lụt trong suốt mùa mưa. Dù nước to đến đâu, đê đập vẫn phải giữ vững”.

Chuyện quỹ thóc chữa đê những năm đầu độc lập. Ảnh: Tư liệu.
Một năm sau, cũng vào đầu tháng 6, Bác lại gửi thư cho đồng bào, bộ đội và cán bộ các tỉnh có đê, nhắc nhở, kêu gọi phòng, chống lụt: “Năm nay, mưa nhiều và sớm, thời tiết biến chuyển thất thường, chúng ta phải phòng lụt lớn. Nhưng dù to lớn đến đâu chúng ta cũng quyết tâm giữ đê cho vững, không để nạn lụt xảy ra. Giữ đê phòng lụt là công việc cực kỳ quan trọng đến dân sinh. Trong việc giữ đê, tổ chức phải chặt chẽ, chỉ huy phải vững vàng, dụng cụ phải đầy đủ. Các đoàn thể nông hội và thanh niên phải xung phong, các đơn vị bộ đội phải tranh thủ thời gian giúp sức đồng bào… Với sự đoàn kết và cố gắng của mọi người, với kinh nghiệm của năm trước, chúng ta nhất định giữ đê tốt và thắng giặc lụt...”.
Nhà sử học Dương Trung Quốc kể tiếp: Tôi từng nghe cụ Nguyễn Xiển nói, những người cán bộ quản lý đê điều hồi đầu cách mạng thực sự là những chiến sĩ rất tận tụy với trách nhiệm của mình.
Đê điều là di sản quý báu của ông cha truyền lại, chúng ta phải biết giữ gìn. Giống như cái lẫy nỏ thần trong chuyện xưa, sơ suất để đánh mất thì hậu quả khôn lường. Và giống như sinh thời Bác Hồ luôn nhắc nhở chúng ta: “Việc giữ gìn đê điều giống như người lính cảnh giới cho hạnh phúc của nhân dân”.