Trong quá trình lấy ý kiến về dự án "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật lĩnh vực nông nghiệp và môi trường", các nội dung sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường nhận được nhiều sự quan tâm từ phía các hội, hiệp hội, doanh nghiệp.
Giải trình xung quanh những ý kiến này, ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh quan điểm nhất quán: Bộ chỉ đưa vào dự án luật những nội dung có tính nguyên tắc. Những điều chỉnh mang tính kỹ thuật, chi tiết sẽ được cụ thể hóa bằng nghị định, thông tư, giúp giảm gánh nặng thủ tục nhưng vẫn đảm bảo tính ràng buộc.
Tiếp tục phân cấp, phân quyền
Một trong những lo ngại nổi bật từ doanh nghiệp là việc sửa đổi luật lần này có thể dẫn đến tình trạng một số thủ tục môi trường bị “kéo ngược” từ cấp tỉnh về Bộ.
Theo bà Hoàng Yến, đại diện Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Luật Bảo vệ môi trường quy định UBND cấp tỉnh có thẩm quyền cấp giấy phép môi trường đối với các đối tượng được quy định tại Khoản 2, Điều 39, trong trường hợp báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đã được UBND cấp tỉnh hoặc bộ, cơ quan ngang bộ phê duyệt, thẩm định. Thay đổi này gây ra một số bất cập trong thực tiễn khi nhiều dự án đã đi vào vận hành, vốn thuộc thẩm quyền cấp giấy phép môi trường của Bộ, nhưng báo cáo ĐTM lại được UBND cấp tỉnh phê duyệt theo đúng quy định hiện hành. Nếu áp dụng dự thảo mới sẽ nảy sinh vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền. Với những doanh nghiệp đã nộp hồ sơ xin giấy phép môi trường theo quy định cũ, việc chuyển sang quy định mới sẽ khó xác định cách xử lý tiếp theo gây không thống nhất.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Hưng Thịnh khẳng định dứt khoát: Không có chuyện thu hồi thẩm quyền về Bộ. Trái lại, trong dự thảo Luật mới, Bộ tiếp tục đề xuất đẩy mạnh phân quyền cho địa phương trong việc giải quyết các thủ tục môi trường. Điều này đồng thời thực hiện song song với phân cấp theo Nghị định 05/2025/NĐ-CP, vốn đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho việc phân định trách nhiệm.

Ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường giải trình xung quanh những ý kiến, kiến nghị của doanh nghiệp. Ảnh: Khương Trung.
Ông Thịnh lưu ý việc phân biệt rõ ràng hai cơ chế “phân quyền” và “phân cấp”. Bộ vừa tiếp tục duy trì cơ chế phân cấp đã được triển khai từ trước, vừa triển khai cơ chế phân quyền, hướng đến việc giao thẩm quyền thực chất hơn cho địa phương.
Theo Luật Bảo vệ môi trường, những hồ sơ, dự án đã được tỉnh phê duyệt thì thẩm quyền cấp giấy phép vẫn thuộc về cấp tỉnh. Với những dự án đã được phê duyệt trước thời điểm Luật có hiệu lực, điều khoản chuyển tiếp cho phép doanh nghiệp lựa chọn: hoặc tiếp tục thực hiện theo quy định pháp luật trước đây (nếu thuận lợi cho dự án), hoặc đề xuất thực hiện theo luật mới. Nói cách khác, luật cho doanh nghiệp quyền lựa chọn quy định có lợi cho mình. Đây là chính sách để tạo tính ổn định và linh hoạt cho doanh nghiệp.
Một ví dụ trong lĩnh vực chăn nuôi, Nghị định 05/2025 đã phân cấp toàn bộ thẩm quyền phê duyệt ĐTM cho địa phương. Đây là minh chứng rõ ràng cho việc đẩy mạnh vai trò địa phương trong quản lý môi trường.
“Sau sáp nhập, nhiều địa phương phản ánh tính trạng quá tải thủ tục hành chính. Cục sẽ tiếp tục rà soát, cắt giảm đối tượng phải thực hiện thủ tục, đơn giản hóa quy trình để phù hợp với năng lực giải quyết ở địa phương. Luật Bảo vệ môi trường sẽ có đợt đánh giá, nghiên cứu toàn diện vào năm 2026, khi đó chúng tôi sẽ xem xét điều chỉnh sâu hơn”, ông Thịnh cho biết.
Giảm gánh nặng đầu tư hạ tầng bảo vệ môi trường
Một “điểm nghẽn” được nhiều hiệp hội như Amcham, VASEP là quy định mới trong dự thảo Luật về việc: Các khu, cụm công nghiệp chỉ tiếp nhận dự án mới, dự án mở rộng quy mô, nâng công suất có phát sinh nước thải khi chủ dự án có cam kết đấu nối nước thải vào hệ thống thu gom, thoát nước và xử lý nước thải tập trung của cụm công nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp hình thành từ lâu, nay không còn quỹ đất để xây dựng hệ thống tập trung, hoặc các doanh nghiệp thứ cấp đã đầu tư hệ thống xử lý riêng. Trong bối cảnh đó, quy định cứng nhắc trở thành rào cản thu hút đầu tư và gây áp lực cho cả chính quyền lẫn doanh nghiệp.

Một số trường hợp khu/cụm công nghiệp được miễn xây dựng hệ thống xử lý tập trung. Ảnh: Trung Nguyên.
Ông Nguyễn Hưng Thịnh cho biết, trong dự thảo Luật, Bộ đã bổ sung quy định mang tính đặc thù. Theo đó, các địa phương sẽ có thẩm quyền quyết định lộ trình đầu tư, cũng như cho phép một số trường hợp được miễn xây dựng hệ thống xử lý tập trung. “Ví dụ, những khu công nghiệp đã hoạt động hàng chục năm, doanh nghiệp thứ cấp đều có hệ thống xử lý riêng, hoặc khu/cụm công nghiệp không còn quỹ đất để xây dựng hệ thống tập trung. Trong các trường hợp này, luật sẽ cho phép miễn đấu nối, đồng thời cho phép nâng công suất các hệ thống xử lý riêng để bảo đảm yêu cầu môi trường", ông Thịnh phân tích.
Quy định này được kỳ vọng tháo gỡ nút thắt, đồng thời vẫn giữ mục tiêu cốt lõi là bảo vệ môi trường. Doanh nghiệp được giảm gánh nặng đầu tư hạ tầng chung, trong khi địa phương có thêm sự linh hoạt để đưa ra quyết định phù hợp với thực tiễn.
EPR - doanh nghiệp phải có hệ thống thu hồi, tái chế bao bì
Vấn đề trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tiếp tục là chủ đề nóng. Theo ông Thịnh, dự thảo Luật sửa đổi lần này chưa thay đổi trực tiếp EPR, mà sẽ nghiên cứu tổng thể trong quá trình sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường vào năm 2026. Tuy nhiên, Bộ đang song song xây dựng nghị định của Chính phủ để hướng dẫn chi tiết hơn, giải quyết trước mắt những vướng mắc doanh nghiệp phản ánh.
Về những đề xuất đưa chi phí EPR trở thành chi phí hợp lệ của doanh nghiệp khi tính thuế, ông Thịnh cho biết, nội dung đó không thuộc phạm vi điều chỉnh trực tiếp của Luật Bảo vệ môi trường. Bộ Tài chính là cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh các quy định này.
Quan điểm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường không khuyến khích doanh nghiệp chỉ nộp tiền thay cho việc thực hiện trách nhiệm thu gom, thu hồi và tái chế bao bì. Mục tiêu của EPR là yêu cầu doanh nghiệp tự xây dựng hệ thống thu gom, thu hồi, tái chế sản phẩm bao bì. Nếu chỉ cho doanh nghiệp đóng tiền và cho phép hạch toán vào chi phí sẽ dẫn đến nguy cơ dồn trách nhiệm về phía người tiêu dùng. Trong định hướng sửa đổi luật Bảo vệ môi trường năm 2026, Cục sẽ xác định rõ chi phí đóng góp của doanh nghiệp, nghĩa là làm rõ hình thức và tính chất của chi phí này. Các quy định sẽ được xây dựng đồng bộ giữa Luật Bảo vệ môi trường và Luật Thuế bảo vệ môi trường để xác định rõ trách nhiệm thuế, phí liên quan. Nếu đây là những khoản hợp lệ sẽ được hạch toán cho doanh nghiệp.
Mặt khác, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cụ thể cho bao bì thân thiện môi trường sẽ được thể hiện trong các văn bản về thuế, phí do Bộ Tài chính tham mưu. Hiện nay Bộ NN-MT đang phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng một đề án tổng thể để đề xuất các cơ chế ưu đãi cụ thể này. Vì vậy, Bộ mong muốn doanh nghiệp đưa ra đề xuất cụ thể về sản phẩm và cơ chế ưu đãi để Bộ có cơ sở đánh giá tác động và kiến nghị với Bộ Tài chính.