Tại hồ sơ thẩm định dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp, Bộ Tư pháp cho biết, trong đợt sửa đổi mới nhất, cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Tài Chính đã đề xuất nhiều quy định mới, trong đó có quy định về “chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp” để phòng, chống các hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, tham nhũng, rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Cụ thể, tại khoản 37, Điều 4 Dự thảo trên quy định, chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp có tư cách pháp nhân là cá nhân có một trong các tiêu chí sau: Cá nhân thực tế nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu từ 25% vốn điều lệ trở lên của doanh nghiệp; Cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng hơn 25% cổ tức hoặc lợi nhuận của doanh nghiệp; Cá nhân cuối cùng có quyền chi phối doanh nghiệp.

Ảnh minh họa.
Theo cơ quan soạn thảo, khái niệm mới này được đưa ra dựa trên các thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp, yêu cầu minh bạch hóa thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi. Việc nhận diện chủ sở hữu hưởng lợi và cung cấp thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi còn là những biện pháp quan trọng để phòng, chống các hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, tham nhũng, rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Thực tế nước ta đã phát sinh tình trạng “núp bóng sở hữu” với nhiều vụ việc tổ chức, cá nhân kiểm soát doanh nghiệp thiếu minh bạch, lạm dụng vị thế kiểm soát doanh nghiệp để thực hiện các hành vi tham nhũng, rửa tiền và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư, đối tác, khách hàng và các cộng đồng xã hội mà còn làm giảm niềm tin, tăng rủi ro và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của khu vực doanh nghiệp và của nền kinh tế.
Từ thực tế trên, bên cạnh việc bổ sung khái niệm chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp, cơ quan soạn thảo còn bổ sung các quy định liên quan như: Doanh nghiệp phải có nghĩa vụ thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi; chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.
Cùng với đó, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi tại thời điểm đăng ký thành lập. Trường hợp doanh nghiệp không có chủ sở hữu hưởng lợi tại thời điểm thành lập thì doanh nghiệp phải thông báo kịp thời thông tin trong thời hạn 10 ngày kể từ thời điểm phát sinh thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.