Ngày 2/9 lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta: Kỷ nguyên độc lập, tự do và đi tới chủ nghĩa xã hội.
Độc lập - hai tiếng ấy không chỉ là mục tiêu tối thượng, là ngọn cờ dẫn lối cả dân tộc qua bao cuộc kháng chiến trường kỳ, mà còn là giá trị thiêng liêng, kết tinh mọi khát vọng sống còn của con người Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta hiểu rõ hơn ai hết cái giá của độc lập. Đó là xương máu của bao thế hệ cha ông đã ngã xuống; là những năm tháng cơ cực, lầm than trong ách đô hộ; là những bản hùng ca bất tử của lòng yêu nước, của ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Ngày nay, khi đất nước đang bước vào thời kỳ phát triển mới, độc lập không chỉ là thành quả đã giành được, mà còn là nền tảng, là điểm tựa, là nguồn sức mạnh vô biên để dân tộc vững vàng hội nhập, khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, giá trị của độc lập càng trở nên sáng rõ: Độc lập dân tộc gắn liền với hạnh phúc con người; Độc lập chỉ thực sự trọn vẹn khi giang sơn thu về một mối; Và Độc lập ấy phải được nuôi dưỡng, bồi đắp trong tư tưởng, văn hóa để trở thành sức mạnh trường tồn của dân tộc.
Nhân dịp Quốc khánh 2/9, loạt bài viết “Giá trị của Độc lập” là một lời nhắc nhớ và khẳng định: Độc lập là máu xương, là hạnh phúc, là cội nguồn sức mạnh Việt Nam.
Loạt bài không chỉ khắc họa giá trị thiêng liêng của độc lập trong lịch sử, mà còn gợi mở niềm tự hào, trách nhiệm và khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng trong thời kỳ mới.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt dân tộc Việt Nam đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong khoảnh khắc thiêng liêng ấy, lời Người cất lên chấn động địa cầu: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh đã nâng lên thành quyền của dân tộc, khẳng định trước toàn thế giới: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ… dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.

Độc lập dân tộc là quyền tạo hóa cho con người, là giá trị tối thượng làm nên sức sống trường tồn của một quốc gia. Ảnh tư liệu.
Độc lập dân tộc, vì thế, không chỉ là mục tiêu chính trị, không chỉ là ngọn cờ giành quyền làm chủ quốc gia, mà còn là điều kiện tiên quyết để mỗi con người có thể sống như một con người đúng nghĩa. Không có độc lập, sẽ không có tự do; không có độc lập, hạnh phúc chỉ là ảo vọng. Độc lập dân tộc chính là quyền tạo hóa cho con người, là giá trị tối thượng làm nên sức sống trường tồn của một quốc gia.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của khát vọng độc lập. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân ta phải chịu kiếp sống lầm than, nhưng cũng từ đó, ngọn lửa đấu tranh chưa bao giờ tắt. Từ Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, Bà Triệu với lời thề “không chịu khom lưng làm tì thiếp”, đến Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng, dân tộc ta liên tiếp đứng lên để khẳng định chân lý: chỉ có độc lập mới đem lại quyền sống cho con người. Lý Thường Kiệt khẳng định trong “Nam quốc sơn hà” rằng sông núi nước Nam là của người Nam; Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” đã tuyên ngôn: “Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân” - việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, mà yên dân thì trước hết phải giữ được độc lập.
Đến thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chân lý ấy được đưa lên đỉnh cao. Cách mạng Tháng Tám thành công, bản Tuyên ngôn Độc lập ra đời, lần đầu tiên khẳng định quyền tạo hóa của mỗi con người Việt Nam bằng sự độc lập của cả một dân tộc. Từ một nước thuộc địa, từ một dân tộc bị áp bức, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, nhân dân làm chủ vận mệnh.
Độc lập dân tộc không chỉ là khát vọng của nhân dân Việt Nam, mà còn là giá trị phổ quát của nhân loại. Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền - Dân quyền Pháp năm 1789 để chứng minh: quyền độc lập là thiêng liêng, là tất yếu. Nhưng Người không dừng lại ở việc lặp lại những chân lý có sẵn mà Người đã phát triển thành một chân lý mới: từ quyền con người thành quyền của các dân tộc. Chính vì vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ là lời tuyên bố với dân tộc ta, mà còn là tiếng nói vang dội khắp năm châu, là sự cộng hưởng với phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
Không có độc lập dân tộc, nhân dân không thể có hạnh phúc. Độc lập là nền tảng để mỗi con người được sống, được học tập, được mưu cầu cuộc đời tốt đẹp. Dưới ách thực dân, nông dân bị tước đoạt ruộng đất, công nhân bị bóc lột sức lao động, trí thức bị kìm hãm tư tưởng; tất cả đều bị tước đoạt quyền làm người. Chỉ khi giành được độc lập, nhân dân ta mới thực sự có quyền sống, quyền làm chủ. Bởi vậy, cha ông ta đã chấp nhận hy sinh máu xương, hàng triệu người con đã ngã xuống trên chiến trường chống Pháp, chống Mỹ, để đổi lấy hai chữ “Độc lập”. Không ai tiếc máu xương, bởi ai cũng hiểu: có độc lập mới có tự do, có độc lập mới có hạnh phúc.
Mùa Xuân năm 1975, khi non sông liền một dải, độc lập dân tộc mới thực sự trọn vẹn. Từ đó, nhân dân Việt Nam được sống trong một quốc gia thống nhất, được xây dựng cuộc đời mới, được cầm lá phiếu quyết định tương lai đất nước. Độc lập không chỉ còn là lá cờ phấp phới trên bầu trời Tổ quốc, mà đã trở thành cơm no áo ấm, trở thành hạnh phúc trong từng mái nhà, từng nụ cười trẻ thơ, từng mùa lúa bội thu.

Độc lập dân tộc là quyền tạo hóa, nhưng không phải món quà được ban tặng, mà là thành quả của hy sinh, máu xương, trí tuệ và bản lĩnh. Vì thế, trách nhiệm lớn lao đặt lên vai các thế hệ hôm nay là phải giữ gìn, phát huy, làm cho giá trị độc lập ngày càng tỏa sáng. Ảnh: Hải Nguyễn.
Ngày nay, 80 năm sau Tuyên ngôn Độc lập, bài học ấy vẫn còn nguyên giá trị. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, độc lập không chỉ là chủ quyền lãnh thổ, mà còn là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Một đất nước muốn giữ vững hạnh phúc cho nhân dân thì không thể phụ thuộc, không thể dựa dẫm, càng không thể đánh mất bản sắc. Việt Nam đã và đang khẳng định bản lĩnh đó: độc lập mà hội nhập, mở cửa mà không hòa tan, kiên định lợi ích dân tộc mà vẫn chung tay cùng nhân loại tiến bộ.
Giữ vững độc lập trong thời đại mới, là phải xây dựng một nền kinh tế tự chủ, làm chủ khoa học công nghệ, nâng cao nội lực dân tộc. Độc lập còn là bản lĩnh văn hóa, là ý thức tự cường, là tinh thần đoàn kết toàn dân. Mỗi người dân Việt Nam hôm nay, từ những việc nhỏ nhất, đều góp phần vào việc giữ gìn độc lập ấy: lao động sáng tạo, sống có trách nhiệm, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Độc lập dân tộc là quyền tạo hóa, nhưng không phải món quà được ban tặng, mà là thành quả của hy sinh, máu xương, trí tuệ và bản lĩnh. Độc lập là máu thịt, là sinh mệnh của dân tộc. Vì thế, trách nhiệm lớn lao đặt lên vai các thế hệ hôm nay là phải giữ gìn, phải phát huy, phải làm cho giá trị độc lập ấy ngày càng tỏa sáng trong đời sống của mỗi con người. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Trong ngày Quốc khánh 2/9, nhớ về Tuyên ngôn Độc lập, ta càng thấm thía giá trị vô giá của độc lập dân tộc. Đó là điều kiện tiên quyết để nhân dân có hạnh phúc, để đất nước phát triển, để con người Việt Nam được sống trọn vẹn với quyền làm người của mình. Và đó cũng là lời nhắc nhở thiêng liêng: mỗi thế hệ phải biết giữ gìn và trao lại cho mai sau một Tổ quốc độc lập - tự do - hạnh phúc, trường tồn cùng thời gian.
(còn tiếp)