Chiều 18/11, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày trước Quốc hội Tờ trình về Dự thảo Nghị quyết quy định một số cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai.
Trước đó, ngày 19/10/2025, Chính phủ đã gửi Tờ trình số 958/TTr-CP tới Quốc hội về dự thảo Nghị quyết. Đến ngày 05/11/2025, tại phiên họp thứ 51, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến. Trên cơ sở Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Thông báo số 4266/TB-VPQH (11/11/2025), cùng ý kiến thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Kinh tế và Tài chính theo Báo cáo số 1403/BC-UBKTTC15 (04/11/2025), Chính phủ đã nghiên cứu, tiếp thu và giải trình tại Báo cáo số 1066/BC-CP ngày 15/11/2025; đồng thời trình Quốc hội Tờ trình số 1065/TTr-CP cùng ngày.
Hoàn thiện thể chế, tháo gỡ “điểm nghẽn” sau một năm thực thi Luật Đất đai 2024
Theo Bộ trưởng Trần Đức Thắng, các chủ trương lớn của Đảng liên quan đến chính sách đất đai, đặc biệt là Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 69-NQ/TW, Kết luận số 194-KL/TW cùng những văn bản về hoàn thiện tổ chức bộ máy và phát triển đất nước đã tạo nền tảng quan trọng cho việc xây dựng Nghị quyết lần này.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày trước Quốc hội Tờ trình về Dự thảo Nghị quyết quy định một số cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai. Ảnh: Khánh Ý.
Sau hơn một năm triển khai Luật Đất đai 2024 và các văn bản hướng dẫn, nhiều chính sách mới đã bước đầu phát huy hiệu quả, góp phần giải phóng nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn phát sinh nhiều yêu cầu mới, đòi hỏi phải ban hành Nghị quyết của Quốc hội nhằm tiếp tục thể chế hóa quan điểm của Đảng và tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thi hành luật.
Mục tiêu của Nghị quyết là thể chế hóa đầy đủ và kịp thời chủ trương của Đảng, đồng thời giải quyết các vướng mắc, điểm nghẽn từ thực tiễn. Qua đó, nâng cao hiệu lực quản lý, sử dụng đất, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
Việc xây dựng dự thảo bám sát các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư giai đoạn 2023–2025, đặc biệt là Nghị quyết số 69-NQ/TW; đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng chuyển đổi số dựa trên hệ thống thông tin đất đai thống nhất.
Dự thảo Nghị quyết gồm 3 chương, 13 điều.
Ba nhóm nội dung lớn của dự thảo Nghị quyết
Theo Tờ trình, nhóm nội dung thứ nhất là thể chế hóa quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ theo Nghị quyết của Trung ương. Ở nhóm này có các nội dung nổi bật gồm: Bổ sung 3 trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (khoản 2 Điều 3); Quy định điều kiện thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế – xã hội (khoản 3 Điều 3); Làm rõ căn cứ thu hồi đất theo tiến độ dự án hoặc tiến độ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (khoản 5 Điều 3); Giá đất bồi thường và tái định cư được xác định theo bảng giá đất và hệ số điều chỉnh (khoản 6 Điều 3);
Toàn cảnh phiên họp. Ảnh: Khánh Ý.
Người sử dụng đất được lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền một lần hoặc hàng năm, trừ đơn vị sự nghiệp công lập; các dự án sử dụng quỹ đất Nhà nước quản lý phải thực hiện thông qua đấu giá hoặc đấu thầu, trừ trường hợp quy định tại Điều 124 Luật Đất đai. Các dự án đang thuê đất trả tiền hằng năm không được chuyển sang trả tiền một lần (khoản 2 Điều 4); Căn cứ tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền bồi thường dựa trên bảng giá đất, hệ số điều chỉnh và tỷ lệ thu tiền sử dụng đất theo từng loại đất (Điều 5, Điều 7).
Phân định rõ ngân sách Trung ương và địa phương trong xây dựng, vận hành hệ thống thông tin đất đai quốc gia (khoản 5 Điều 11); Quy định nội dung chuyển tiếp, nhằm giải quyết vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai (khoản 7, 8, 9 Điều 11).
Nhóm nội dung thứ hai là gỡ các “điểm nghẽn” theo Thông báo 08-TB/BCĐTW, trong đó, bổ sung trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh để làm cơ sở cai nghiện ma túy do lực lượng vũ trang quản lý (khoản 1 Điều 3); Quy định thời hạn niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là 10 ngày; thời hạn tổ chức đối thoại trong trường hợp còn ý kiến không đồng thuận là 30 ngày (điểm b khoản 6 Điều 3).
Điều kiện đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án khu đô thị, khu dân cư nông thôn: phải có quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch chung đối với trường hợp không yêu cầu lập quy hoạch chi tiết (khoản 6 Điều 4); Bảng giá đất được áp dụng để tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, khi giao đất, cho thuê đất…; riêng dự án lấn biển phải xác định giá đất cụ thể (khoản 1 Điều 7);
Không bắt buộc tách thửa khi chuyển mục đích sử dụng một phần thửa đất; không bắt buộc cùng mục đích sử dụng đối với trường hợp hợp thửa (khoản 3 Điều 11); Quy định chuyển tiếp để xử lý các vướng mắc trong thực thi (điểm d, đ khoản 9 Điều 4).
Nhóm nội dung cuối cùng là các giải pháp tiếp tục tháo gỡ trong quá trình thi hành Luật Đất đai, bao gồm: Về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (Điều 3): giải quyết vấn đề khấu trừ khoản nhà đầu tư đã ứng trước; thời gian thông báo thu hồi đất; các trường hợp không được bồi thường; bồi thường thiệt hại tài sản; quy định chuyển tiếp.
Về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất (Điều 4): làm rõ căn cứ, điều kiện; bổ sung trường hợp không đấu giá, không đấu thầu; điều chỉnh thời hạn sử dụng đất với nhà đầu tư mới; quy định chuyển tiếp.
Về tài chính đất đai, giá đất (Điều 5-10): tháo gỡ căn cứ tính tiền sử dụng đất, thời điểm chọn thông tin đầu vào; sửa đổi quy định bảng giá đất, hệ số điều chỉnh, Hội đồng thẩm định giá đất; cơ chế miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.
Các nội dung liên quan đến tài sản trên đất thuê trả tiền hằng năm; hợp thửa, tách thửa; đăng ký, cấp Giấy chứng nhận trong một số trường hợp cụ thể.
Báo cáo Thẩm tra dự án Nghị quyết quy định về một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai, Uỷ ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội cho biết, căn cứ các cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn tại Tờ trình của Chính phủ và hồ sơ dự án Nghị quyết kèm theo, Ủy ban KTTC tán thành sự cần thiết ban hành Nghị quyết. Đề nghị tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết để phù hợp với các chủ trương, quan điểm cụ thể của cấp có thẩm quyền; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật. Đề nghị tiếp tục rà soát các quy định phải bảo đảm phù hợp quy định của Hiến pháp, bảo đảm tính khả thi, công bằng, minh bạch, không gây khiếu kiện, khiếu nại, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân.
















