Hơn 300 năm trước, doi đất nhỏ giữa sông Đồng Nai từ chỗ hoang vu, trở thành “đệ nhất thương cảng”, rồi Cù lao Phố, tức phố thị ở cù lao...
Cầu Ghềnh (còn gọi là cầu Gành hoặc cầu Đồng Nai Lớn) bắc qua sông Đồng Nai, giúp Cù lao Phố dễ dàng thông thương với Sài Gòn và Biên Hòa.
Dù chỉ phát triển rực rỡ trong gần 1 thế kỷ, nhưng doi đất nhỏ nằm giữa dòng Đồng Nai này đã kịp để lại cho đời những dấu ấn văn hóa, lịch sử to lớn. Cùng với đó là những danh nhân, danh tướng, tài đức vẹn toàn, được người đời sau tôn kính.
Những ngày rong ruổi Cù lao Phố, tôi như được sống, được hòa mình vào quá khứ hơn 300 năm trước, cảm nhận hồn cốt tiền nhân như vẫn còn đâu đó, trên những con đường cũ, những di tích cổ trầm mặc rêu phong, qua lời kể của những bậc cao niên, hay những “cây đại thụ” về văn hóa, lịch sử Trấn Biên như ông Trần Quang Toại, Chủ tịch Hội Sử học Đồng Nai, Nhà văn, Nhà nghiên cứu Bùi Quang Huy…
Dấu ấn danh tướng Trần Thượng Xuyên tại đình Tân Lân 1.

Nhà văn Bùi Quang Huy thù thì chia sẻ: “Trước thế kỷ 17, vùng đất Biên Hòa nói riêng hay cả Nam Bộ nói chung, vẫn hoang hóa. Đến năm Kỷ Dậu 1679, Tổng binh Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, những danh tướng Nhà Minh, trên đường bôn tẩu sau khi phản Thanh phục Minh không thành, đã đưa đoàn tùy tùng gồm 3.000 người và 50 chiếc thuyền theo đường biển sang nước ta xin tị nạn. Sau khi cân nhắc, Chúa Nguyễn đồng ý, ban chức tước rồi lệnh cho đoàn đi xuống phương Nam lập nghiệp”.
Ngồi kế bên, ông Trần Quang Toại, Chủ tịch Hội Sử học Đồng Nai góp lời: “Trần Thượng Xuyên dẫn đoàn theo đường biển xuôi phương Nam, đến cửa biển Cần Giờ, lại theo sông Đồng Nai lên hướng Biên Hòa. Đến Cù lao Phố, thấy khúc sông này không chỉ rộng, mà nước còn sâu, đủ sức cho ghe lớn cập bến. Từ đây, ghe tàu có thể ngược lên phía Bắc hoặc xuôi xuống phía Nam, ra tận biển, đi các nước. Trần Thượng Xuyên là một danh tướng đa tài, nhìn ra ngay đây là đất lành, nên hạ lệnh dừng chân”.
Ở vùng đất mới, Trần Thượng Xuyên cùng người dân Việt - Hoa ra sức khẩn hoang, lập chợ buôn bán, phố xá ngày càng sầm uất. Đến đầu thế kỷ 18, Cù lao Phố đã thực sự là “đệ nhất thương cảng”. Tuy nhiên, sự thịnh vượng của thương cảng Cù lao Phố chỉ kéo dài gần 1 thế kỷ thì chấm dứt do binh biến.
Sẽ là thiếu sót lớn nếu nói về Cù lao Phố mà không nhắc đến Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, bậc khai quốc công thần thời Nhà Nguyễn.
Theo ông Bùi Quang Huy, năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh Chúa Nguyễn vào kinh lược vùng đất phía Nam, nhằm “hợp thức hóa” chủ quyền vùng đất Gia Định - Đồng Nai của triều đình Nhà Nguyễn và mở rộng bờ cõi xuống phía Nam. “Trần Thượng Xuyên là người mang đến Cù lao Phố sự phồn vinh. Còn Nguyễn Hữu Cảnh lại là 1 vị quan tài đức, thay mặt triều đình Nhà Nguyễn, mang đến Cù lao Phố sự ổn định xã hội, mỗi vị đều có công rất lớn, được nhân dân hết lòng tôn kính. Riêng Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã được các đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức ban cho 4 sắc phong”.
Bức tượng Nguyễn Hữu Cảnh tại đền Đức Ông.
Sự kính trọng ấy thể hiện rất rõ khi gặp những người dân sống xung quanh đền. Hay lúc vào đền, gặp và trò chuyện với 2 ông Trịnh Văn Hùng, Trịnh Ngọc, thành viên ban quý tế, tôi cảm nhận từng lời nói, từng cử chỉ của họ đều thể hiện sự tôn kính, ân cần. “Chẳng ai bảo ai, nhưng khi bước chân vào đền Đức Ông, chúng tôi đều tự giác ‘sạch sẽ, đi nhẹ, nói khẽ, nhẹ nhàng, từ tốn’, ông Hùng nói và cho biết thêm, 2 ông đều là người “ngũ Quảng”, tổ tiên xưa theo Đức Ông vào khai khẩn Cù lao Phố.
Nhìn từ trên cao, Cù Lao Phố giống như 1 quả chuông lớn, được sông Đồng Nai bao trọn. Ngày nay, dù cù lao đang “đô thị hóa” với tốc độ chóng mặt, nhà cao tầng, công trình bê tông lấn dần màu xanh vườn cây, ruộng đồng, cách đó vài cây số là thành phố công nghiệp Biên Hòa ồn ào, khói bụi, nhưng chỉ qua cầu An Hảo, sang đến cù lao, không khí như loãng ra, nhẹ bẫng, trong lành, dễ chịu hẳn.


Dù chỉ hưng thịnh gần 1 thế kỷ, nhưng Cù Lao Phố đã kịp trở thành vùng đất có nhiều công trình, di tích lịch sử nhất xứ Đàng Trong. Trên diện tích chỉ 6,6km2, có đến 11 đình, 6 chùa, 3 tịnh xá, 3 ngôi miếu và 1 thánh thất… trong đó có 3 công trình Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia là đền thờ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Đại Giác cổ tự và Thất phủ cổ miếu.
Một trong những công trình nổi tiếng nhất ở Cù lao Phố là Thất phủ cổ miếu, hay còn gọi chùa Ông, nằm bên bờ sông Đồng Nai. Ngôi miếu do nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên lập năm 1684, thờ Quan Công. Theo Nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Đồng Nai Trần Quang Toại, Thất phủ cổ miếu không phải là chùa, mà là nơi người Hoa thuộc 7 Phủ (Phủ - đơn vị hành chính của Trung Quốc) cùng nhau đóng góp xây dựng, để làm nơi gặp gỡ, giao lưu văn hóa, tín ngưỡng truyền thống. Cũng là dịp để mọi người ôn cố tri tân, hỗ trợ nhau khi cần. Còn chùa Ông là cách gọi dân gian của nhóm người Việt, lâu dần thành quen”.
.
Thất phủ cổ miếu - nơi người Hoa cùng nhau gặp gỡ, giao lưu văn hóa, tín ngưỡng truyền thống.
Đến Thất phủ cổ miếu, tôi được ông Trịnh Diệu Hiệp, thành viên Ban quản miếu, cho biết: “Đây là ngôi miếu người Hoa lâu đời nhất ở Cù lao Phố, công trình có kiến trúc "tứ hợp viện" theo lối truyền thống người Hoa bản địa, gồm các phần tiền điện, phương đình và chính điện. Ngoài những bức tượng điêu khắc bằng gỗ mít nài bên trong, trên nóc chùa có phù điêu “ông Nhật”, “bà Nguyệt”, tượng trưng cho âm - dương hòa hợp. Phù điêu này được chạm khắc từ đá núi Bửu Long. Nơi có loại đá xanh đẹp nhất phương Nam, chuyên dùng cho những công trình lớn như tượng Phật, đình chùa. Ngoài ý đó ra thì trong Hán tự cổ, chữ Nhật và Nguyệt ghép lại thành chữ Minh, đây là cách nhớ về cố quốc của cộng đồng người Hoa xa xứ”, ông Hiệp nói.
Cùng với sự phát đạt của thương mại, Cù lao Phố cũng là nơi tập trung nhiều nghề thủ công nổi tiếng như dệt chiếu, tơ lụa, đúc đồng, chạm khắc đá, gạch ngói… Một trong số những nghề nổi tiếng còn tồn tại và phát triển đến ngày nay là nghề gốm, gắn liền với địa danh gốm Tân Vạn, gốm Biên Hòa.
Làng gốm Biên Hòa từng tạo ra những sản phẩm vang danh vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX gắn liền với sự ra đời của Trường Bá Nghệ Biên Hòa, do người Pháp lập năm 1903 (có tài liệu ghi thành lập năm 1902), nay là Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đồng Nai. Đây chính là cái nôi của gốm mỹ thuật. Gốm Biên Hòa là thương hiệu gốm Việt duy nhất được định danh trên trường quốc tế, với chất liệu men xanh đồng trổ bông đặc trưng, mang tên "Vert de Bien Hoa".

Còn làng gốm Tân Vạn nằm dọc sông Đồng Nai, đã tồn tại hàng trăm năm. Nhưng do các lò này đều đốt thủ công bằng củi, gây ô nhiễm môi trường, nên từ năm 2018, toàn bộ lò gốm ở đây phải di dời ra cụm công nghiệp gốm Tân Hạnh, đốt bằng gas và điện. Tại Tân Vạn, Phong Sơn hiện là lò gốm duy nhất còn giữ lại được di tích khu lò nung dài gần 100m và trở thành một địa chỉ “hot” khi mỗi tháng tiếp hàng chục đoàn học sinh, sinh viên, chuyên gia, nhà khoa học, nhà nghiên cứu, khách nước ngoài đến tham quan, tìm hiểu về nghề truyền thống xưa.
Chị Mai Ngọc Nhi - chủ lò gốm Phong Sơn.
Đến lò gốm Phong Sơn, tôi gặp chị Mai Ngọc Nhi, chủ lò gốm. Chị Nhi cho biết, lò gốm Phong Sơn của gia đình chồng, thành lập năm 1827. Anh Hứa Mỹ Chiêu, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gốm Mỹ nghệ Đồng Nai, chồng chị, là thế hệ thứ 5.
Điều thú vị là chị Nhi chỉ gắn bó với nghề gốm 8 năm nay. Nhưng không chỉ là người vực dậy nghề truyền thống mấy trăm năm của gia đình chồng, mà chị còn thay đổi hướng kinh doanh, đưa doanh nghiệp lên một tầm cao hơn khi tìm được chỗ đứng trên thị trường quốc tế. “Nghề nào cũng có ông Tổ, tôi tin mình chính là người được ông Tổ gốm chọn”, chị Nhi nói chắc nịch khi kể về cái duyên với gốm.
Trước khi đến với nghề gốm, chị Nhi từng du học ở Anh, sau đó về làm giảng viên bộ môn nhà hàng, khách sạn ở một số trường đại học tại TP.HCM, Biên Hòa. Chị nói: “Tôi là người "ngoại đạo", ngay cả khi lấy chồng về đây, tôi cũng không quan tâm đến gốm. Cách đây 8 năm, tôi chợt muốn tự tay làm một bình hoa gốm mỹ thuật. Quá trình thực hiện, tôi tìm đi nhiều cơ sở, gặp các nghệ nhân học hỏi, rồi đăng ký vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đồng Nai học, chỉ để lấy kiến thức thôi chứ không cần bằng. Rồi tôi yêu gốm lúc nào không hay và quyết tâm vực dậy nghề gốm của gia đình chồng đang có nguy cơ mai một. Đến bây giờ, tôi đã là một thợ giỏi của công ty, chuyên thực hiện vẽ mẫu trên gốm”.
Những nghệ nhân làng gốm Tân Vạn là người giúp thương hiệu gốm Biên Hòa bay xa.
Chị Nhi khẳng định, mặc dù nghề gốm mỹ thuật Biên Hòa do người Pháp mang sang, nhưng đó chỉ là khởi đầu. Chính những nghệ nhân làng gốm Tân Vạn mới là người giúp thương hiệu gốm Biên Hòa bay xa.
“Những sản phẩm bình gốm có men, vẽ hình, chế tác cầu kỳ gọi là gốm mỹ thuật, hay gốm trắng, còn gốm Tân Vạn, gọi là lu thì đúng hơn, vì chủ yếu là các sản phẩm đơn giản như lu, chậu từ gốm đất đen, hay bùn đỏ. Những lu, chậu gốm nung Tân Vạn từng cực thịnh vào thế kỷ 19 vì nhu cầu sử dụng.
Sau khi Trường Bá Nghệ Biên Hòa ra đời, họ làm ra những sản phẩm có mẫu mã đẹp, nhưng lại không nắm được kỹ thuật nung, phải mang sản phẩm đến cho dân Tân Vạn nung. Vì những sản phẩm của họ nhỏ, rất mỏng manh, nung rất dễ hỏng, biến dạng, nên phải dùng những lu lớn bao bên ngoài, mỗi cái lu lớn sẽ đặt các bình gốm nhỏ vào bên trong. Vì nung bằng củi nên cần có người thợ giỏi canh nhiệt, nếu không, sản phẩm có thể biến dạng vì quá nhiệt, hoặc non vì chưa đủ nhiệt. Những kỹ năng này, người Pháp họ phải nhờ thợ Tân Vạn. Có thể nói, gốm mỹ thuật Biên Hòa nổi danh được là nhờ thợ Tân Vạn”.
Sau 8 năm gắn bó với gốm, chị Nhi không chỉ vực dậy thương hiệu gốm Phong Sơn mà còn làm cho doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ. Hơn 95% sản phẩm xuất khẩu đi các nước từ châu Á đến châu Âu. Không chỉ có gốm mỹ thuật, mà gốm đất đen với những sản phẩm lần đầu được sản xuất theo đơn đặt hàng của các nước châu Âu cũng “lên ngôi”. Một trong số đó là chiếc chậu đất nung “siêu to”, với chiều cao từ 1,2-1,5m, bán kính miệng chậu gần 2m.
“Sản phẩm của Phong Sơn hiện nay chủ yếu là xuất khẩu, các mặt hàng gốm đất đen như chậu hoa, bồn hoa, ví như những chậu khổng lồ này, họ rất chuộng, đặt nhiều”, chị Nhi nói.







