Bộ NN-MT đang lấy ý kiến rộng rãi dự thảo Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng. Nghị định trên quy định chi tiết khoản 5 Điều 63 của Luật Lâm nghiệp, gồm: đối tượng, hình thức, mức chi trả, quản lý sử dụng tiền dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng. Đồng thời, bổ sung các nội dung về nguyên tắc, điều kiện cung ứng và sử dụng dịch vụ; triển khai thụ và lưu giữ carbon của rừng.
Xác định chủ thể tham gia chuyển nhượng tín chỉ kết quả giảm phát thải
Thực tiễn hiện nay, qua gần 3 năm thực hiện thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính nguồn thu từ carbon rừng, kết quả cho thấy đây là nguồn thu mới để đầu tư vào bảo vệ và phát triển rừng, được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức triển khai còn gặp một số khó khăn, vướng mắc về vấn đề sử dụng nguồn tiền từ chuyển nhượng kết quả giảm phát thải của chủ rừng là tổ chức, xác định đối tượng được hưởng lợi. Đặc biệt, chưa có quy định cụ thể về mức chi trả, chi phí trang trải cho các hoạt động liên quan đến các công tác cần thiết như đo đạc, báo cáo, thẩm định kết quả giảm phát thải; kiểm tra, giám sát carbon rừng; nâng cao năng lực, giải quyết tranh chấp, khiếu nại...
Hiện nay, một số đối tác quốc tế đang tích cực hợp tác với Bộ NN-MT để trao đổi, thảo luận về ký kết thoả thuận trao đổi tín chỉ carbon . Một số địa phương (Quảng Nam, Lào Cai, Sơn La...) đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương thí điểm xây dựng Đề án đối với dịch vụ hấp thụ, lưu giữ carbon của rừng nhưng đến nay không thể triển khai do chưa có khung pháp lý về trao đổi, chuyển nhượng kết quả giám phát thải, tín chỉ carbon rừng áp dụng trong phạm vi toàn quốc.

Nguồn thu từ carbon rừng dùng để tái đầu tư vào công tác bảo vệ và phát triển rừng. Ảnh minh họa.
Gần đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 119/2025/NĐ-CP ngày 9/6/2025 về sửa đổi,bổ sung một số điều của Nghị định 06/2022/NĐ-CP. Trong đó có những quy định trình tự, thủ tục xây dựng, thẩm định, phê duyệt dự án carbon nói chung; quy định chỉ có tổ chức mới có thể đăng ký dự án carbon. Tuy nhiên, chưa quy định cụ thể cơ quan nào tổ chức triển khai dự án carbon rừng. Trong khi đó, theo Luật Lâm nghiệp năm 2017, có khu rừng thuộc sở hữu toàn dân, có khu rừng thuộc sở hữu của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư. Điều này đặt ra yêu cầu phải có quy định cụ thể cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có thể triển khai dự án carbon rừng phù hợp với các hình thức sở hữu rừng ở nước ta.
Do đó, song song với quy định chi tiết khoản 5 Điều 63 của Luật Lâm nghiệp 2017, dự thảo nghị định cũng bổ sung một số nội dung nhằm tạo khung pháp lý cho hoạt động trao đổi, chuyển nhượng kết quả giảm phát thải, tín chỉ carbon rừng, trong đó có việc cấp tín chỉ carbon rừng để các có thể tiến hành giao dịch trên thị trường carbon.
Hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, chủ rừng và các bên liên quan
Theo cơ quan soạn thảo, bên cung ứng dịch vụ dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng phải đăng ký xây dựng, triển khai dự án carbon rừng theo quy định pháp luật. Trong đó đảm bảo đầy đủ từ các hoạt động tạo kết quả giảm phát thải đến đo đạc, báo cáo và thẩm định kết quả giảm phát thải; cấp tín chỉ carbon rừng; đồng thời phải đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải do quốc gia tự quyết định (NDC) và các nghĩa vụ khác; thực hiện cung ứng dịch vụ thông qua các hình thức, như: hợp đồng hoặc thực hiện trên sàn giao dịch carbon trong nước.

Đo chu vi cây rừng ngập mặn để tính toán lượng giảm phát thải CO2. Ảnh: Trung Nguyên.
Bên sử dụng dịch vụ là tổ chức hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam, cam kết thực hiện các nội dung theo hợp đồng hoặc cơ chế vận hành của sàn giao dịch carbon trong nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính liên quan theo quy định của pháp luật.
Về nguyên tắc, Dự thảo nghị định nêu rõ, việc cung ứng và sử dụng dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng phải đảm bảo công khai, có trách nhiệm, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, chủ rừng và các bên liên quan. Đồng thời, đảm bảo không ảnh hưởng đến việc thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính mà Việt Nam tham gia.
Kết quả giảm phát thải, tín chỉ carbon rừng đã được trao đổi, chuyển nhượng theo hợp đồng hoặc trên sàn giao dịch carbon thì bên cung ứng không được trao đổi, chuyển nhượng cho các bên sử dụng khác. Nguồn thu từ trao đổi, chuyển nhượng kết quả giảm phát thải, tín chỉ carbon rừng là nguồn thu của chủ rừng, được sử dụng cho các hoạt động phục vụ bảo vệ và phát triển rừng. Khuyến khích các bên hợp tác triển khai dự án carbon rừng và chia sẻ lợi ích từ việc trao đổi, chuyển nhượng kết quả giảm phát thải, tín chỉ carbon rừng.
Theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2022 nhằm thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, Việt Nam đặt mục tiêu giảm 146,3 triệu tấn CO2tđ vào năm 2030 bằng nỗ lực trong nước, và có thể tăng lên đến 403,7 triệu tấn CO2tđ nếu có sự hỗ trợ từ quốc tế. Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 của Việt Nam cũng đề ra mục tiêu sẽ đưa phát thải ròng về “0”.