Thúc đẩy nông nghiệp sinh thái cho người nghèo vùng núi phía Bắc

Khu vực miền núi phía Bắc gồm 10 tỉnh (cũ): Bắc Kạn, Cao Bằng, Điện Biên, Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Lạng Sơn, Sơn La, Tuyên Quang, Yên Bái, với tổng diện tích là 7,96 triệu ha.

Theo một nghiên cứu trong khuôn khổ Dự án “Nông nghiệp sinh thái tạo cảnh quan bền vững cho người nghèo vùng núi phía Bắc” (Dự án A4P) (hyperlink: https://linktr.ee/a4pvietnamproject) về “Giới và kiến thức bản địa liên quan đến canh tác và quản lý tài nguyên thiên nhiên” của ICRAF Việt Nam (Nguyễn Mai Phương, Dương Minh Tuấn, Phạm Thanh Vân, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thị Nhị Hường), Tây Bắc  là vùng nghèo nhất cả nước, với tỷ lệ hộ nghèo dao động từ 10,5% ở Hòa Bình đến hơn 30% tại các tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu. Bên cạnh đó, tác động ngày càng gia tăng của biến đổi khí hậu đang làm gia tăng áp lực lên tài nguyên thiên nhiên địa phương.

Khu vực miền núi phía Bắc (MNPB) có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; có vai trò quan trọng đối với môi trường sinh thái vùng Bắc Bộ.

Địa hình khu vực MNPB khá đa dạng và phức tạp với các đỉnh núi cao, thung lũng sâu và hệ thống sông suối dày; địa hình bị chia cắt và hiểm trở..  Người dân khu vực MNPB sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp với hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp là chủ yếu.

Về trồng trọt

Với đặc điểm về địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu nhiệt đới gió mùa,nóng ẩm, mùa đông lạnh, nên khu vực MNPB có thế mạnh để phát triển cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới. Trong đó, chè là một trong những loại cây được trồng phổ biến và có diện tích lớn nhất cả nước, phân bố nhiều ở các tỉnh:Yên Bái, Hà Giang, Sơn La, Lạng Sơn, Cao Bằng.

Điều kiện khí hậu vùng giáp biên giới của Cao Bằng, Lạng Sơn, vùng núi cao Hoàng Liên Sơn rất thuận lợi cho việc trồng các cây thuốc quý (tam thất, đương quy, đỗ trọng, hồi, thảo quả…) và các cây ăn quả như đào, lê, mận.

Tổng diện tích trồng cây lương thực có hạt khu vực MNPB không nhiều và có xu hướng giảm. Hoạt động sản xuất còn manh mún, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng rét đậm, rét hại, băng giá, sương muối và tình trạng thiếu nước tưới vào mùa Đông nên các lợi thế của khu vực chậm được phát huy, chưa khai thác tối đa được tiềm năng, thế mạnh.

Về chăn nuôi

Khu vực MNPB có nhiều đồng cỏ, chủ yếu trên các cao nguyên có độ cao 600-700 m. Diện tích của các đồng cỏ tuy không lớn, nhưng có thể phát triển chăn nuôi đối với các loại gia súc như trâu, bò, dê, ngựa, trong đó, bò sữa chủ yếu được nuôi tập trung ở cao nguyên Mộc Châu (Sơn La). Trâu và bò thịt được nuôi rộng rãi, nhất là trâu.

Mặc dù có lợi thế về đồng cỏ nhưngdiện tích không lớn, do đó,hình thức chăn nuôi chủ yếu vẫn nhỏ lẻ; phần lớn theo phương thức truyền thống, tập quán thả rông, tận dụng thức ăn tại chỗ;chưa chủ động được thức ăn và con giống; chăn nuôi đại gia súc là thế mạnh nhưng phát triển chưa bền vững, trâu bò bị chết do rét và dịch vẫn diễn ra hàng năm.

Về lâm nghiệp

Khu vực MNPB chủ yếu là đất lâm nghiệp, tổng diện tích rừng của các tỉnh khu vực MNPB có xu hướng tăng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, chất lượng rừng nhìn chung thấp, công tác quản lý, bảo vệ rừng ở một số địa phương trong khu vực còn nhiều yếu kém, cháy rừng vẫn diễn ra trên diện rộng.

Suy thoái đất và giảm diện tích đất canh tác

Thiên tai có xu hướng ngày càng cực đoan và BĐKH ảnh hưởng nặng nề hơn đến sản xuất nông nghiệp. Quỹ đất dành cho sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp do BĐKH.

Bên cạnh đó, chất lượng đất sản xuất cũng bị suy giảm do bị xói mòn, thoái hóa và cạn kiệt chất dinh dưỡng.

Theo số liệu từ Cục Khoáng sản Việt Nam năm 2021, kết quả điều tra tại khu vực MNPB, có tới 4.286,52 ha bị xói mòn, 4.894,38 ha bị khô hạn và 2.738 ha bị suy giảm độ phì.

Giảm năng suất cây trồng

BĐKH làm thay đổi quy luật thủy văn của các dòng sông, gây nên hiện tượng hạn hán,nắng nóng, lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa nhiều lần,làm cây trồng khô héovà có hiện tượng chết hàng loạt.

Đối với sản xuất nông lâm nghiệp, nhiều loại thiên tai tồi tệ nhất, xảy ra ngày càng nghiêm trọng hơn, với tần suất và quy mô ngày càng lớn hơn, gây nhiều thiệt hại và kéo dài.

Sâu bệnh hại phát triển

BĐKH làm cho sâu bệnh phát sinh và gây hại trên cây trồng, dẫn đến giảm năng suất, đặc biệt là ngô và lúa là những cây trồng chịu tác động rõ rệt nhất. Ngô được xem là cây màu phổ biến, là nguồn thu nhập chính của các hộ đồng bào dân tộc thiểu số.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, diện tích ngô ở nhiều địa phương đã bị thiệt hại do xuất hiện một số loại sâu bệnh mới phá hoại. Điển hình như sâu keo mùa thu, là loài sâu mới xuất hiện ở Việt Nam từ đầu năm 2019, có khả năng di trú xa, gây hại mạnh trên cây ngô và nhiều loại cây trồng khác.

Khó khăn cho chăn nuôi

BĐKH đã gây ra thời tiết cực đoan ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của gia súc, gia cầm, đặc biệt là rét đậm, rét hại vào mùa Đông gây chết hàng loạt gia súc, gia cầm.

Ngoài ra, BĐKH góp phần nảy sinh và gia tăng một số bệnh mới đối với gia súc, gia cầm, thậm chí phát triển thành dịch hay đại dịch như: cúm gia cầm; tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, trâu và bò.

Nguy cơ với lâm nghiệp

Khi nhiệt độ tăng cao, lượng mưa giảm và thời tiết khô hanh là hiểm họa, nguy cơ cháy rừng. Bên cạnh đó, hoạt động canh tác nương rẫy theo lối truyền thống của người dân đã gây ra nhiều vụ cháy rừng.

Do điều kiện khí hậu biến đổi theo chiều hướng xấu đi nên các loài sâu bệnh, côn trùng phát triển, lây lan nhanh,gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động bảo tồn và phát triển các hệ sinh thái, nhất là loại rừng trồng trong khu vực.

Nếu ví nông nghiệp sinh thái giống như triết lý “ăn uống lành mạnh”, thì nông lâm kết hợp (NLKH) là một trong những chế độ ăn cụ thể giúp hiện thực hóa triết lý đó, giúp tăng đa dạng sinh học, cải thiện tuần hoàn dinh dưỡng, bảo vệ môi trường, tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.

Đối với đất dốc tại vùng Tây Bắc Việt Nam, NLKH có thể là một phương thức canh tác bền vững hơn để sản xuất lương thực và dịch vụ khác so với canh tác độc canh cây hàng năm.

Các chuyên gia của Tổ chức Nghiên cứu Nông Lâm Quốc tế (ICRAF) tại Việt Nam đã tổ chức đánh giá về năng suất cây trồng, tác dụng bảo tồn đất, lợi nhuận, sinh trưởng và phát triển của cây trồng, sự thay đổi không gian trong phân phối tài nguyên và tác động của các biện pháp quản lý cỏ dại khác nhau trong các hệ thống NLKH (4-7 tuổi) bao gồm cây ăn quả, cây trồng (ngô, cà phê) và cỏ làm thức ăn gia súc trên vùng đất dốc (độ dốc từ 27-65%) ở Tây Bắc Việt Nam. Các hệ thống trồng thuần cây ăn quả, ngô và cà phê được sử dụng làm đối chứng.

Kết quả cho thấy NLKH cho sản phẩm đa dạng và lợi nhuận cao hơn so với hệ thống độc canh, nhưng chi phí đầu tư ban đầu cũng cao hơn. Việc đưa các dải cây-cỏ vào NLKH hợp đã góp phần hình thành các tiểu bậc thang giúp ngăn ngừa/giảm thiểu xói mòn đất và các tổn thất liên quan đến carbon hữu cơ trong đất (SOC) và chất dinh dưỡng thực vật.

Tăng trưởng và năng suất cây trồng ở phía trên và giữa các hàng cỏ/cây cao hơn phía dưới. SOC và các chất dinh dưỡng thực vật có xu hướng tích lũy/tăng lên trên các hàng cây-cỏ theo thời gian trong các hệ thống NLKH.

Việc áp dụng cuốc tay để bổ sung hoặc thay thế thuốc trừ cỏ giúp hỗ trợ cây phát triển tốt hơn và tăng sản lượng cây trồng, đồng thời giảm sự phong phú của cỏ dại, cũng như bù đắp một phần chi phí cao cho việc kiểm soát cỏ dại thủ công trong NLKH.

Do đó, NLKH bao gồm cây ăn quả, dải cỏ và hoa màu có thể là một lựa chọn khả thi cho sản xuất nông nghiệp bền vững trên vùng đất dốc, thông qua cải thiện lợi nhuận và bảo tồn đất so với trồng độc canh cây hoặc hoa màu.

Để tối ưu hóa năng suất cây trồng trong các hệ thống NLKH, quản lý thích ứng là cần thiết để giảm cạnh tranh và cải thiện tính sẵn có của tài nguyên không gian. Việc áp dụng rộng rãi NLKH sẽ đòi hỏi các ưu đãi hoặc khoản vay ban đầu, trao đổi kiến thức và liên kết thị trường.

Theo số liệu thống kê của ICRAF tại Việt Nam, các hệ thống NLKH được đánh giá đều cho sản phẩm đa dạng hơn so với các hệ thống trồng thuần bắt đầu từ năm thứ 2 hoặc năm thứ 3. Bắt đầu từ năm thứ 3 và thứ 4 khi cây ăn quả bắt đầu ra hoa kết quả, thì sản phẩm của NLKH còn đa dạng hơn nữa.

Trong khi đó hệ thống trồng thuần chỉ mang lại duy nhất một sản phẩm là cây ngắn ngày hoặc sản phẩm từ cây ăn quả. Đối với các hệ thống trồng thuần chỉ có cây ăn quả, phải đợi đến năm thứ 3 hoặc năm thứ 4 hệ thống này mới mang lại sản phẩm.

Nhìn chung các hệ thống NLKH được đánh giá mang lại đa dạng sản phẩm hơn so với hệ thống trồng thuần và sản phẩm được tạo ra sớm hơn so với các hệ thống trồng thuần cây ăn quả.

Tuy nhiên trong một số hệ thống, năng suất riêng lẻ của các thành phần cây trồng có năng suất thấp hơn khi so sánh với hệ thống trồng thuần, là do sự cạnh tranh về dinh dưỡng, nước và ánh sáng.

Do vậy, các tác động cạnh tranh cần được xem xét khi thiết kế các hệ thống NLKH và cần thiết phải xây dựng các chế độ quản lý hợp lý hơn để tối ưu hóa năng suất của các thành phần trong hệ thống.

Nghiên cứu của tôi về Nông lâm kết hợp cây ăn quả trên đất dốc tại vùng Tây Bắc Việt Nam (hyperlink: https://pub.epsilon.slu.se/31622/1/do-vh-20230528.pdf) tập trung vào các nông hộ sản xuất nhỏ thuộc khu vực đất dốc ở Tây Bắc Việt Nam. Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu về sản xuất, bảo tồn đất, phát triển cây trồng và hoa màu, cũng như tác động của các phương pháp kiểm soát cỏ dại khác nhau. Vẫn còn nhiều nghiên cứu cần được thực hiện trong lĩnh vực này, nhưng với việc hệ thống Nông lâm kết hợp  mang lại năng suất tổng thể đa dạng và cao hơn, đồng thời mang lại lợi ích cho sự bền vững lâu dài trong nông nghiệp, tôi tin rằng chúng ta có thể tối ưu hóa hệ thống để nhiều nông dân sẵn sàng áp dụng. Nông lâm kết hợp với cây ăn quả giúp giảm xói mòn đất trên các sườn dốc. Các tiểu bậc thang được hình thành giúp giảm thiểu thất thoát carbon hữu cơ và dinh dưỡng thực vật từ 20% đến 84% so với canh tác độc canh.” – TS. Đỗ Văn Hùng – Cán bộ Nghiên cứu và Quản lý Dự án REDAA Việt Nam tại Lào Cai

Tất cả các hệ thống NLKH được đánh giá đều cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc giảm thiểu xói mòn đất so với ngô trồng thuần bắt đầu từ năm thứ 2. Sau 5 năm đánh giá trung bình các hệ thống giảm thiểu rửa trôi xói mòn đất lần lượt là 30%, 50%, 80% và 90% so với hệ thống ngô trồng thuần.

Điều này chứng tỏ rằng các hệ thống NLKH cho thấy chúng đã góp phần đáng kể vào việc bảo tồn đất thông qua giảm mất đất do xói mòn khi so sánh với hệ thống ngô thuần trong canh tác trên đất dốc tại vùng Tây Bắc Việt Nam.

Tất cả các thành phần cây cối, hoa màu và cỏ trong các hệ thống NLKH này được trồng theo đường đồng mức trên các sườn dốc. Các thành phần cây cối trong hệ thống NLKH trồng theo đường đồng mức và khi chúng phát triển theo thời gian đã tạo ra các rào cản sinh học có vai trò trực tiếp trong việc giảm thiểu xói mòn.

Các rào cản sinh học này có thể làm giảm độ dài và độ nghiêng của sườn dốc, do đó giúp kiểm soát xói mòn đất . Các hệ thống NLKH được đánh giá có kết quả phù hợp với những từ nghiên cứu trước đây về các biện pháp bảo tồn đất ở vùng Tây Bắc Việt Nam.

Hơn thế nữa, trong các hệ thống NLKH, các dải cỏ đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm thất thoát đất và dinh dưỡng do xói mòn đất.

Các dải cỏ này trồng theo đường đồng mức và phát triển theo thời gian đã tạo ra các cấu trúc vật lý như là những tiểu bậc thang để giảm thiểu xói mòn và có thể thay đổi tốc độ dòng chảy bề mặt trong canh tác trên đất dốc. Các tiểu bậc thang trong các hệ thống NLKH được hình thành do quá trình bồi lắng dần của đất phía trên các dải cỏ.

Thêm vào đó, cây cối hoặc cây bụi được trồng trên hoặc gần các tiểu bậc thang này có thể giúp củng cố và ổn định các cấu trúc tiểu bậc thang hơn. Những cấu trúc tiểu bậc thang hoặc ruộng bậc thang được tạo ra ở những vùng đất dốc, khi kết hợp với các kỹ thuật nông nghiệp khác, có thể làm tăng đáng kể năng suất nông nghiệp và cải thiện hiệu quả sử dụng nước.

METRICS là dự án nhằm hỗ trợ các quá trình chuyển đổi nông nghiệp sinh thái nhằm xây dựng hệ thống nông nghiệp và lương thực có khả năng chống chịu và mang tính bao trùm.

Dự án này sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang các phương pháp tiếp cận nông nghiệp sinh thái, cần giải quyết một số câu hỏi then chốt, bao gồm: làm thế nào để đo lường hiệu quả nông nghiệp theo cách cho phép so sánh công bằng; làm thế nào để đảm bảo sự chuyển dịch sang nông nghiệp sinh thái mang tính bền vững và công bằng; vai trò của khu vực công và khu vực tư trong quá trình chuyển đổi này là gì; và những loại công cụ, nguồn lực nào sẽ hỗ trợ tốt nhất cho sự thay đổi toàn diện và mang tính hệ thống.

Dự án này sẽ phát triển các chỉ số mới và toàn diện về hiệu quả của hệ thống lương thực, thông qua việc lồng ghép nghiên cứu có sự tham gia vào các dự án phát triển nông nghiệp sinh thái đang diễn ra tại 8 quốc gia thuộc khu vực Nam bán cầu.

Thông qua các mối quan hệ hợp tác này, cũng như thông qua Diễn đàn Đối tác trong chuyển đổi sang Nông nghiệp Sinh thái (Agroecology TPP), dự án sẽ phát triển, thử nghiệm và phổ biến các chỉ số mới nhằm hỗ trợ các mục tiêu quốc gia và đặt nông nghiệp sinh thái ở vị thế ngang bằng với các phương pháp phát triển nông nghiệp khác.

Theo TS. Matthias Geck, Nhà khoa học về hệ thống nông nghiệp sinh thái tại CIFOR-ICRAF Nairobi (hyperlink: https://www.cifor-icraf.org/), Điều phối viên của Diễn đàn Đối tác chuyển đổi sang Nông nghiệp sinh thái (Aroecology TPP) (hyperlink: https://www.agroecologytpp.org/), trong quá trình thực hiện dự án phải gắn kết người nông dân ở mọi bước trong quá trình đồng sáng tạo tri thức.

"Phải luôn đảm bảo rằng, ở mỗi giai đoạn, chúng ta trở lại trao đổi với những người mà chúng ta phục vụ để xem liệu chúng ta có đang trả lời đúng các câu hỏi của họ hay không, và liệu cách chúng ta thực hiện có mang ý nghĩa và hữu ích cho họ hay không", TS. Matthias Geck nói.

Theo ông, trong dự án METRICS, các chuyên gia bắt đầu bằng cách trò chuyện với những người thuộc nhiều nhóm khác nhau: các nhóm nông dân, tổ chức xã hội, nhà hoạch định chính sách, và tất nhiên cả các nhà nghiên cứu ở nhiều nơi trên thế giới.

"Chúng tôi cố gắng cùng họ tìm ra những vấn đề then chốt mà họ muốn trả lời, bằng chứng mà họ cần, và những cách tiếp cận nào sẽ giúp họ có được câu trả lời đó tốt nhất", TS. Matthias Geck chia sẻ thêm.

Cụ thể, các chuyên gia đã rà soát tất cả những gì hiện có, cả trong tài liệu học thuật lẫn tài liệu không được công bố rộng rãi, để tạo ra một cơ sở dữ liệu khổng lồ về các công cụ, khung và chỉ số, được thiết kế sao cho dễ dàng tiếp cận với nhiều nhóm người dùng khác nhau.

Nhờ đó, họ có thể nhanh chóng tìm ra các lựa chọn sẵn có để đo lường, chẳng hạn như khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, bình đẳng giới, hạnh phúc con người, hay đa dạng sinh học.

Thông qua việc phát triển và thử nghiệm có sự tham gia của cộng đồng đối với các chỉ số mới đánh giá hiệu quả nông nghiệp và hệ thống lương thực, một khung giám sát toàn diện sẽ được xây dựng, cho phép các chính phủ, nhà quản lý dự án và các bên liên quan khác đánh giá tác động của các can thiệp nông nghiệp lên các kết quả về kinh tế, môi trường và xã hội.

Dự án METRICS là một phần của Chương trình TRANSITIONS. Dự án sẽ tận dụng các quan hệ đối tác của Agroecology TPP về Nông nghiệp sinh thái với các dự án nông nghiệp sinh thái đang được triển khai tại tám quốc gia (trong đó có Việt Nam) để phát triển và thử nghiệm các chỉ số dự kiến cho việc đánh giá toàn diện hiệu suất hệ thống lương thực thực phẩm trên nhiều quy mô.

"Chuyển đổi Nông nghiệp sinh thái vì Tương lai của chúng ta" (hay còn gọi là TRANSITIONS) là một chương trình nhằm mục đích hỗ trợ nông dân chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu ở quy mô lớn tại các nước thu nhập thấp và trung bình thông qua việc phát triển và áp dụng:

  • Các chỉ số toàn diện về hiệu suất hệ thống lương thực thực phẩm và nông nghiệp; 2. Các công cụ kỹ thuật số toàn diện; và 3. Các ưu đãi và đầu tư có thể theo dõi được từ khu vực công-tư cho hệ thống lương thực thực phẩm. Chương trình (2022-2025) do Liên minh Châu Âu tài trợ và dược IFAD quản lý, CIFOR-ICRAF là một trong những đối tác thực hiện.

Dự án sẽ gồm 3 hợp phần. Hợp phần 1: Phát triển các chỉ số tổng hợp. Hợp phần này sẽ đánh giá tình trạng hiện tại của các chỉ số đánh giá hiệu quả nông nghiệp và hệ thống lương thực thông qua một tổng quan có hệ thống.

Hợp phần 2: Thử nghiệm và đánh giá các chỉ số. Hợp phần này sẽ tiến hành thử nghiệm lặp lại các chỉ số tổng hợp tiềm năng trên nhiều quy mô và địa lý khác nhau trong các dự án đối tác tại 8 quốc gia.

Hợp phần 3: Hỗ trợ việc áp dụng các chỉ số. Hợp phần này sẽ xây dựng các tài liệu hỗ trợ, bao gồm hướng dẫn và quy trình sử dụng các chỉ số tổng hợp, đồng thời tương tác với các bên liên quan để đưa các chỉ số đánh giá hiệu quả tổng thể của nông nghiệp và hệ thống lương thực vào phục vụ công tác quản lý, lập kế hoạch, hoạch định chính sách và ra quyết định đầu tư.

Theo TS. Matthias Geck , “Nông nghiệp sinh thái là tương lai, đây là cách tiếp cận hiện đại, không phải là quá khứ. Đúng là cách tiếp cận này dựa trên tri thức bản địa và địa phương, nhưng đó là sự kết hợp giữa những gì con người đã học được từ xa xưa với các phương pháp hiện đại sáng tạo, để tạo ra một tương lai thực sự tôn trọng con người và hành tinh, có thể nuôi sống thế giới mà không gây hại cho môi trường, đồng thời tăng cường gắn kết xã hội.”

Bài viết có sự tham gia đóng góp của Tổ chức Nghiên cứu Nông Lâm Quốc tế (ICRAF) tại Việt Nam. ICRAF (còn được biết đến với tên gọi World Agroforestry) là tổ chức duy nhất thực hiện các nghiên cứu quan trọng liên quan tới nông lâm kết hợp ở quy mô toàn cầu từ năm 1978, bên cạnh gần 20 năm triển khai các hoạt động nghiên cứu tại Việt Nam.

ICRAF hiện cũng là một trong những đối tác của Việt Nam trong tiến trình chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm Minh bạch, Trách nhiệm và Bền vững.

Từ năm 2019, ICRAF bắt đầu đồng hành cùng Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR) nhằm khai thác sức mạnh của cây thân gỗ, rừng và cảnh quan nông lâm kết hợp với mục đích giải quyết những thách thức toàn cầu cấp bách nhất hiện nay như mất đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, sinh kế và bất bình đẳng. Cả ICRAF và CIFOR đều là các thành viên của CGIAR.

Tùng Đinh – Bảo Thắng
Trọng Toàn
Tùng Đinh – Bảo Thắng