Đã bước sang năm thứ 5, Vàng Thị Dế, cô gái Mông 23 tuổi ở bản Thải Phìn Tủng (xã Đồng Văn) miệt mài dệt giấc mơ từ cây lanh truyền thống. Với Dế, lanh không còn là loài cây trồng xen canh trong mảnh nương nhỏ của gia đình, mà là “sứ giả văn hóa” của vùng cao nguyên đá.


Mưa rả rích rơi trùm phủ một lớp mờ đục lên những dãy núi đá tai mèo, cả bản làng đều ẩm ướt. Màn mưa ấy khiến xưởng lanh của Vàng Thị Dế ướt nhẹp, tựa như con gà mái mẹ đang ướt rũ xòe đôi cánh để bao bọc cho đàn con dưới lớp cánh ấm. Giữa nền vách tre vàng óng, tấm biển gỗ khắc chữ trắng: "DỆT VẢI LANH TRUYỀN THỐNG - HEMP HMONG VIETNAM" hiện lên nổi bật.
Ở xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang cũ, nay là xã Đồng Văn, tỉnh Tuyên Quang, hỏi Vàng Thị Dế không ai là không biết. Người thì nhớ cô là cô gái Mông niềng răng đầu tiên của xứ đá, người thì kể về cô như một tấm gương trẻ đang quyết tâm đưa vải lanh vươn ra thế giới.


Xưởng lanh của Dế được dựng bằng những phên tre, nứa, trên phủ mái che nhựa. Bên trong xưởng không rộng nhưng rất ngăn nắp. Những khung cửi gỗ đã lên nước bóng loáng qua nhiều thế hệ. Phía bên kia, nhiều khung cửi mới vừa hoàn thiện, đang nằm chờ nắng lên để lắp. Một góc khác treo những tấm vải lanh thô vừa hoàn thiện. Mùi sợi gai dầu ngai ngái quyện trong hương khói bếp thoang thoảng…
Cả tuần nay mưa lẹp nhẹp chưa ngừng, xưởng đang tạm dừng hoạt động. Chờ mưa tạnh, Dế sẽ chuyển hết khung dệt cũ và kê khoảng chục khung mới lên khoảng sân láng xi-măng cao, bằng phẳng hơn. Phần mặt tiền thoáng đãng sẽ thành không gian trưng bày đón khách. Tại đó, du khách sẽ trực tiếp thẩm định những sản phẩm vải lanh được bà con làm thủ công, qua nhiều công đoạn, có độ tinh xảo hơn nhiều so với loại lanh nhập từ Trung Quốc.
Với chiến lược kinh doanh bài bản, đầy tự tin, quyết đoán, Dế đang dệt cho mình, cho bản làng, cho cây lanh vùng cao một giấc mơ mới. Đây là điều hiếm thấy ở những cô gái Mông đồng trang lứa.

Vàng Thị Dế cho biết, cô lớn lên trong tiếng guồng quay sợi kẽo kẹt, tiếng thoi dệt lách cách, đều đều, trầm buồn như ru ngủ của mẹ, của bà. Đó là thứ âm thanh quen thuộc gắn với hình ảnh của những người phụ nữ Mông cần mẫn ngày ngày bên khung cửi, đan từng sợi lanh thành vải. Mỗi sợi lanh bên tay bà đều đổi lại bằng mồ hôi, công sức và cả những câu chuyện xưa cũ. Với người Mông, vải lanh vừa là thứ để mặc, vừa là mạch sống trong tâm hồn đồng bào nơi đây.
Là cô gái đầu tiên trong bản học đại học, Dế ý thức được mình mang trên vai kỳ vọng của cả bản Nhèo Lủng. Ngày Dế nhận giấy báo đỗ đại học, bà con cùng nhau góp gạo, góp tiền cho cô xuống Thủ đô. Dế tâm sự: “Bản thân em luôn tự nhủ, đi học không chỉ cho riêng mình, mà còn cho cả bản làng”.
Cô gái trẻ mang theo ước mơ đó nhập học Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Năm 2021, khi đang là học năm thứ 3, đại dịch Covid-19 ập đến. Dế mất việc làm thêm ở nhà hàng, không còn thu nhập. Trở về ngôi nhà nơi cao nguyên đá, trong lúc dọn dẹp, Dế tình cờ tìm thấy những tấm vải lanh mẹ cất kỹ trong hòm gỗ. Xin mẹ bán thử. Cô không ngờ chỉ một bài đăng trên mạng xã hội đã có khách mua ngay.
Tấm vải “gia bảo” giúp cô vượt qua thời điểm ngặt nghèo. Nhưng quan trọng nhất, nó mở cho Dế một lối đi. Những sợi lanh thô mộc đưa cô về với cội nguồn, khơi dạy trong cô khát vọng giữ gìn văn hóa quê hương. Dù khi ấy, ước mơ vẫn mù mờ, xa ngái.
Ra trường, có nhiều cơ hội ở lại thành phố, nhưng cô vẫn chọn trở về. Ở nơi vùng cao xa xôi ấy, những người phụ nữ bao đời vẫn tần tảo trên nương rẫy, lặng lẽ bên những góc bếp, trên những con đường độc đạo lưng chừng núi. Dế muốn trở về để cùng họ viết giấc mơ đổi đời qua từng sợi lanh quê hương.




“Hemp Hmong Vietnam” có nghĩa là “Cây lanh của người Mông Việt Nam”. Tấm biển to, khắc rõ dòng chữ ấy được treo trên xưởng lanh của Dế, dựng ngay khúc cua chân dốc Thài Phìn Tủng. Hemp Hmong Vietnam chuyên cung cấp vải lanh thô truyền thống cho khách hàng là các nhà thiết kế, cửa hàng thời trang... yêu thích loại vải “đông ấm, hè mát”. Nó định hình cho giấc mơ của Dế thành sự thật.
Nhận thiết kế theo yêu cầu riêng, Dế tự tay sáng tạo các sản phẩm thời trang từ vải lanh như túi, khăn, áo... kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, được khách hàng ưa thích. Đó là cách cô làm mới và phát triển nghề truyền thống.
Trợ tá cho cô gái 23 tuổi là bà Sùng Thị Say (66 tuổi, ở xã Phó Bảng). Bên khung cửi, đôi tay bà Say thoăn thoắt đẩy thoi, kéo sợi, tấm vải lanh thô dần hiện ra chắc khỏe, mộc mạc. Bà kể, từ nhỏ đã được học dệt bên bếp lửa khi chưa có điện. Giờ ở tuổi 66, bà vẫn miệt mài mỗi ngày.
“Tôi mới đến làm 3 tháng mà vui hơn hẳn ở nhà, lại có tiền công ổn định. Mỗi tháng cũng kiếm được khoảng 3 triệu đồng, nhiều hơn nuôi 1 con lợn, cả tháng chưa được đồng nào”, bà Say chia sẻ.


Xưởng dệt lanh của Dế hiện tạo công việc thường xuyên cho bốn lao động, đều là những phụ nữ người Mông lớn tuổi, thu nhập trung bình 4 triệu đồng/tháng. 10 gia đình khác trong bản cũng tham gia mô hình của Dế nhưng dệt lanh tại nhà, được trả công theo sản phẩm. Mỗi hộ có thêm từ 2-3 triệu đồng mỗi tháng.
Nhưng với Dế, những con số này chỉ là phần nổi của tấm vải lớn mà cô đang dệt. Điều quan trọng hơn là giúp phụ nữ Mông có thể làm chủ sinh kế ngay trên mảnh đất của mình, dựa vào chính di sản văn hóa cha ông để lại. Từ những sợi lanh truyền thống, Dế muốn tạo nên một chất liệu xanh, thân thiện với môi trường, góp phần vào xu hướng phát triển bền vững của thế giới.


Đồng thời, mô hình hợp tác xã của cô cũng mở ra cách tiếp cận mới trong việc bảo tồn văn hóa gắn liền với phát triển kinh tế, để những tấm vải lanh không còn nằm im trong các bảo tàng, mà hiện diện sống động trong đời sống hiện đại; mỗi sản phẩm mặc lên người đều đang kể một câu chuyện văn hóa.
Trở về cao nguyên đá, Dế mở xưởng, tổ chức các buổi workshop thêu hoa văn và trực tiếp dẫn các đoàn khách du lịch tới tham quan, trải nghiệm 12 công đoạn dệt lanh. Khách được tận mắt chứng kiến quá trình làm vải lanh, được vừa nhìn, vừa chạm tay vào sợi lanh, thậm chí tự tay thử sức một vài công đoạn.




Người Mông gieo hạt lanh vào khoảng tháng 3, tháng 4, khi mùa mưa sắp bắt đầu. Đây là mùa xuống giống ngô vụ mới. Đất trời vừa qua đợt rét, tiết trời dịu lại, cũng là lúc những hạt giống ngủ vùi được đánh thức. “Trồng lanh xen canh cùng ngô, đậu, vì rễ lanh ăn sâu, giữ ẩm cho đất, giúp đất tốt hơn”, Dế giải thích.
Mùa thu hoạch ngô cũng là thời điểm cây lanh được thu hoạch. Cây to, khỏe sẽ được giữ lại làm giống, số còn lại được nhổ lên, róc lấy vỏ rồi phơi khô dọc hàng rào đá. Ban đêm, các bó lanh được trải trên bãi cỏ đón sương lạnh vùng cao để thân cây mềm ra. Sáng sớm, những người phụ nữ Mông bắt đầu tước sợi. Động tác tưởng chừng đơn giản nhưng đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ. Họ vừa mết, vừa kéo mỗi thân lanh thành 5 sợi nhỏ. Quá trình kéo phải giữ cho sợi vừa tơi đều, vừa không bị đứt. Người khéo cũng chỉ tước được 3 bó mỗi ngày. Đặc biệt là, tuyệt nhiên không ai tước sợi vào ban đêm. Theo quan niệm của người Mông, ban đêm là lúc tổ tiên về thăm bản, nếu tước lanh vào ban đêm sẽ bị cho là bất kính, sợi sẽ đứt, mùa làm ăn không thuận.


Tước xong sợi được bó lại, giật sợi rồi cuộn thành từng ổ. Những cuộn lanh sau đó được cho vào cối đá giã liên tục 2 giờ để mềm ra, rồi nối bằng tay, ngâm tro bếp làm trắng tự nhiên, cuối cùng đưa lên guồng quay. Tiếng guồng gỗ xoay lục cục hòa vào nhịp sống lao động quen thuộc.
Công đoạn ấn tượng nhất là lăn vải bằng đá sông. Người Mông ở Đồng Văn thường xuống sông Nho Quế chọn những hòn đá tròn nhẵn, trải vải lên khúc gỗ, đặt đá lên rồi dùng chân lăn nhiều giờ liền. Nhờ vậy, sợi vải được ép chặt, mịn và bóng mà không cần một giọt hóa chất. Tấm vải lanh thành hình là kết quả của bao ngày kiên trì, đôi bàn tay và trái tim luôn khát khao giữ lửa nghề.
Khi đã xây dựng được quy trình sản xuất ổn định và tạo ra những sản phẩm chất lượng, Dế bắt đầu nghĩ xa hơn. Cô chủ động mở rộng thị trường ra nước ngoài, tìm cách để những tấm vải lanh của người Mông không chỉ dừng lại ở bản làng hay thị trường trong nước. Dế liên hệ với các cửa hàng tại Nhật Bản, Thái Lan, tự tay viết email bằng tiếng Anh để giới thiệu sản phẩm. Không dừng ở đó, cô còn xách ba lô ra nước ngoài, tìm gặp các đối tác tiềm năng, mang theo câu chuyện của bản mình đi gõ cửa thế giới.
Nhờ sự quảng bá đó, xưởng dệt của cô trở thành điểm dừng chân của nhiều đoàn khách quốc tế. Tận mắt chứng kiến người Mông dệt vải, nhiều khách nước ngoài lặng người khi chạm tay vào từng sợi lanh - thứ chất liệu tưởng chừng như thô ráp nhưng càng chạm càng thấy mượt và ấm tay. Họ không cảm nhận được sự mộc mạc, bền chắc, mềm mại của sợi lanh thiên nhiên, mà còn thấy trong đó hơi thở sống động của văn hóa Mông.
Từ năm 2021 đến nay, hành trình gắn bó với vải lanh đã đưa Dế đi xa hơn những con đường dốc quanh bản. Cô trở thành gương mặt trẻ tiêu biểu, đại diện cho thế hệ người Mông mới tham gia nhiều sự kiện quốc tế và trong nước.


Dế từng góp mặt tại Diễn đàn Côn Minh về Hợp tác và Trao đổi giáo dục Nam Á và Đông Nam Á lần thứ 6, mở ra những kết nối đầu tiên với cộng đồng quốc tế. Năm 2023, cô là đại diện duy nhất của Việt Nam tham dự chuỗi dự án “Dệt ước mơ, thêu sông núi” và Hội thảo di sản văn hóa phi vật thể Lancang - Mekong do Đại học Dân tộc Vân Nam (Trung Quốc) tổ chức, cùng học viên đến từ 4 quốc gia: Lào, Thái Lan, Campuchia và Myanmar. Tại đây, Dế vinh dự thay mặt học sinh, sinh viên 6 quốc gia lưu vực sông Mê Kông phát biểu tại hội thảo về nghề dệt nhuộm, học tập và trao đổi cùng các giảng viên đến từ Thượng Hải và Bắc Kinh.
Năm 2024, cô tiếp tục góp mặt tại Diễn đàn Gai dầu quốc tế châu Á - Asia International Hemp Expo & Forum tổ chức ở Bangkok (Thái Lan), đồng thời tham gia nhiều hội chợ, chương trình tìm hiểu về cây gai dầu tại Lào, Thái Lan, Campuchia và Philippines. Báo chí Đại học Dân tộc Vân Nam từng đăng tải bài viết về Dế: “Cô gái Việt Nam trẻ tuổi, ham học, lạc quan và đầy nghị lực” như một tấm gương hiếm thấy trong lĩnh vực hemp của khu vực Đông Nam Á.
Không chỉ tạo dấu ấn quốc tế, Vàng Thị Dế cũng được ghi nhận ở trong nước. Cô được Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tặng bằng khen “Sinh viên có đóng góp cho cộng đồng văn hóa dân tộc thiểu số”; được vinh danh là Thanh niên tiêu biểu xã Thài Phìn Tủng năm 2024; nhận giấy khen về “Sử dụng công nghệ số lan tỏa hình ảnh Hà Giang” năm 2023 và giấy khen “Cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2020-2025”.
Tháng 8/2025, Dế vinh dự được mời giới thiệu sản phẩm và văn hóa Mông tại Văn phòng Chính phủ, trực tiếp trò chuyện với Thủ tướng Phạm Minh Chính trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.




Nhìn về tương lai, Dế đã vạch ra cho mình những dự định lớn và bước đi dài hơn. Cô muốn xây dựng một không gian văn hóa ngay tại xưởng dệt, biến nơi đây thành một “bảo tàng sống” về vải lanh của người Mông. Du khách đến đây được ngắm nhìn, chạm, cảm nhận và trải nghiệm trọn vẹn văn hóa sợi lanh.
Song song với đó, Dế dự định đa dạng hóa sản phẩm từ vải lanh, từ quần áo, túi ví, thảm… cho đến trà và dầu gai dầu. Bởi từ khi còn trên giảng đường, Dế đã thực hiện đề tài khoa học nghiên cứu về cây gai dầu của người Mông. Đề tài đoạt giải Nhất nghiên cứu khoa học cấp trường (Đại học Văn hóa Hà Nội) và giải thưởng của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo tìm hiểu của cô, sợi cây gai dầu cũng như sợi cây lanh là nguyên liệu để làm thành vải, rất bền, chắc và đẹp. Các sản phẩm thủ công từ cây gai dầu cũng mang trong mình những giá trị văn hóa đặc sắc, có cơ hội phát triển và có cơ hội hiện diện nhiều hơn trong đời sống hiện đại.

Cô cũng lên kế hoạch tổ chức thường xuyên các buổi workshop, tour trải nghiệm cho khách du lịch trong và ngoài nước. Mục tiêu trong 2 năm tới, cô sẽ đưa Hemp Hmong Vietnam trở thành đơn vị cung cấp sợi lanh lớn nhất Việt Nam để xuất khẩu. Hơn hết, Dế mong thế hệ trẻ ở bản làng giữ và biến nghề truyền thống thành niềm tự hào, thành con đường phát triển bền vững cho tương lai.
Mới đây, cơ sở dệt lanh truyền thống của Vàng Thị Dế nằm trong danh sách các đơn vị được chính quyền xã Đồng Văn hỗ trợ, tạo điều kiện vay vốn từ ngân hàng chính sách để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo tồn nghề truyền thống của vùng núi đá.
Trên cao nguyên đá, giấc mơ của cô thiếu nữ trẻ người Mông đang đánh thức vùng đất khó. Tấm vải lanh thô mộc vượt núi cao, vực sâu đến với bạn bè quốc tế, kể câu chuyện văn hóa của bản làng một cách bình dị nhưng tinh tế.