Hoàn thiện khung pháp lý
Theo TS. Nguyễn Hoàng Tiệp, Phó Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ quản lý rừng bền vững, Việt Nam tham gia quản lý rừng bền vững từ năm 1998, nhưng trước năm 2014, ngành lâm nghiệp vẫn chưa áp dụng chính sách mang tính pháp quy về các nguyên tắc, tiêu chí, trình tự thực hiện quản lý rừng bền vững.
“Các hoạt động liên quan đến quản lý rừng bền vững khi ấy mới chỉ dừng lại ở mức độ thí điểm và tự phát. Để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý rừng bền vững và chứng chỉ quản lý rừng bền vững để phục vụ công tác quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, doanh nghiệp, chủ rừng thực hiện quản lý rừng bền vững, Chính phủ và Bộ NN-PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã ban hành các văn bản, quy định về quản lý rừng bền vững”, TS Tiệp cho hay.

Mô hình chuyển hóa rừng gỗ nhỏ sang rừng gỗ lớn của Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn (Gia Lai). Ảnh: V.Đ.T.
Cũng theo TS Tiệp, đến nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về quản lý rừng bền vững và chứng chỉ quản lý rừng bền vững ngày càng hoàn thiện và cơ bản đáp ứng được yêu cầu thực tiễn quản lý, sản xuất của các địa phương, chủ rừng.
Bên cạnh đó, các địa phương kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, điều hành, tuyên truyền, phổ biến, đào tạo, tập huấn cho các chủ rừng về phương án quản lý rừng bền vững; tổ chức thẩm định, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án quản lý rừng bền vững của chủ rừng theo quy định. Cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp đã có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao và phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng.
Chứng chỉ quản lý rừng bền vững là văn bản công nhận một diện tích rừng nhất định đáp ứng các tiêu chí về quản lý rừng bền vững. Các loại chứng chỉ quản lý rừng bền vững phổ biến bao gồm chứng chỉ quốc tế từ các tổ chức uy tín như FSC (Hội đồng Quản lý rừng) và PEFC (Chương trình công nhận chứng nhận rừng), cùng với chứng chỉ quốc gia được cấp bởi Việt Nam theo hệ thống VFCS/PEFC.
Vượt mục tiêu diện tích rừng được cấp chứng chỉ bền vững
Theo TS. Nguyễn Hoàng Tiệp, Phó Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ quản lý rừng bền vững, tính đến tháng 7/2025, cả nước đã có 674.946 ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, với 224.237 ha được cấp theo hệ thống chứng chỉ rừng quốc gia VFCS/PEFC.
"Con số này đã vượt mốc 500.000 ha rừng được cấp chứng chỉ vào năm 2025 theo mục tiêu chiến lược phát triển ngành lâm nghiệp đề ra”, TS Tiệp cho hay.
Đến nay, đã có 70% diện tích rừng của các chủ rừng là tổ chức đã hoàn thành xây dựng, phê duyệt phương án quản lý rừng bền vững. Các địa phương có diện tích rừng trồng lớn như các tỉnh: Tuyên Quang, Yên Bái, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Bình Định, Bình Phước (rừng cao su) cũ đã xác định cấp chứng chỉ rừng, đặc biệt là cho hộ gia đình. Đây là giải pháp tổ chức sản xuất nhằm gia tăng giá trị cho rừng trồng, tạo thu nhập cho nguời trồng rừng.
Bên cạnh đó, hiện ngành lâm nghiệp đã xây dựng được mối liên kết giữa doanh nghiệp và hộ gia đình trồng rừng trong tổ chức sản xuất, hình thành nhóm hộ với sự hỗ trợ của doanh nghiệp; theo đó, diện tích rừng được cấp chứng chỉ theo mô hình liên kết với doanh nghiệp đã chiếm tới gần 20% tổng diện tích rừng được cấp chứng chỉ của cả nước.
Đặc biệt, đã hình thành đội ngũ các đơn vị tư vấn hỗ trợ các địa phương, chủ rừng trong xây dựng phương án quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế (FSC và VFCS/PEFC); xã hội hóa các đơn vị đánh giá cấp chứng chỉ rừng; phát triển đội ngũ đánh giá viên (bao gồm cả đánh giá trưởng) trong nước đáp ứng yêu cầu của tổ chức chứng chỉ rừng để giảm giá thành khi cấp chứng chỉ rừng.
“Việc thành lập hệ thống chứng chỉ rừng quốc gia (VFCS/PEFC) đã góp phần khẳng định được vai trò của Việt Nam trong quản lý rừng bền vững và trách nhiệm đối với sử dụng nguồn nguyên liệu hợp pháp. Ngoài ra, còn giúp các chủ rừng tiếp cận nhanh hơn với việc cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững”, TS. Nguyễn Hoàng Tiệp khẳng định.
Tín hiệu vui của ngành lâm nghiệp là hiện nay đã hình thành sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị trong ngành, sự tham gia tích cực của các đơn vị liên quan trong quá trình xây dụng và vận hành hệ thống chứng chỉ rừng quốc gia; đã đẩy nhanh quá trình thực hiện quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng ở nước ta.

Rừng gỗ lớn của Công ty TNHH Quy Nhơn (Gia Lai) đang được cán bộ kỹ thuật tỉa cành để rừng phát triển. Ảnh: V.Đ.T.
Tuy nhiên, cũng theo TS Tiệp, trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý rừng bền vững và chứng chỉ quản lý rừng bền vững; một số địa phương, chủ rừng còn gặp các khó khăn, vướng mắc như: Tổng diện tích rừng trồng sản xuất được cấp chứng chỉ đạt thấp, chiếm khoảng 17% tổng diện tích rừng trồng sản xuất cả nước. Hầu hết, diện tích rừng đã được cấp chứng chỉ do chủ rừng tự bỏ vốn hoặc liên kết với doanh nghiệp chế biến gỗ.
“Diện tích rừng trồng sản xuất phần lớn phân bố manh mún, không tập trung, chủ yếu do hộ gia đình, cá nhân quản lý; trong khi đó, có đến 1 triệu hộ gia đình quản lý rừng trồng nên gặp khó khăn trong việc tổ chức xây dựng phuơng án quản lý rừng bền vững và lập hồ sơ cấp chứng chỉ rừng”, TS Nguyễn Hoàng Tiệp chia sẻ.