Đại dương, nguồn sống thiết yếu của nhân loại đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức vượt qua khả năng kiểm soát của bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào: biến đổi khí hậu, ô nhiễm, suy giảm đa dạng sinh học, căng thẳng địa chính trị. Giải quyết những vấn đề này đòi hỏi một cơ chế quản lý tổng hợp, hiệu quả, dựa trên tri thức khoa học và sự phối hợp toàn cầu.
Với vị thế địa chính trị đặc biệt, Việt Nam đã và đang chủ động hội nhập quốc tế, thể hiện vai trò tích cực và trách nhiệm trong quản trị đại dương toàn cầu. Tại Hội nghị Đại dương Liên hợp quốc lần thứ ba ở Pháp, Thủ tướng Phạm Minh Chính đại diện cho 10 nước ASEAN nhấn mạnh định hướng phát triển kinh tế biển dựa trên khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường và hợp tác gìn giữ hòa bình, ổn định trên biển.
Trụ cột chiến lược của quốc gia biển
Phát biểu tham luận tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ NN&MT lần thứ I , Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam Nguyễn Đức Toàn thông tin, quản lý tổng hợp biển và đại dương không chỉ là công cụ kỹ thuật mà còn là trụ cột chiến lược, giúp khai thác bền vững tiềm năng kinh tế biển, bảo vệ môi trường và khẳng định vị thế quốc gia biển có trách nhiệm. Thực tế cho thấy, thiếu một cơ chế điều phối tập trung sẽ dẫn đến phát triển phân tán, kém hiệu quả và tiềm ẩn rủi ro xung đột lợi ích.

Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam Nguyễn Đức Toàn. Ảnh: Khương Trung.
Được giao vai trò Văn phòng cơ quan thường trực Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đảm nhiệm nhiệm vụ điều phối liên ngành, liên vùng, kết nối với các đối tác quốc tế, tối ưu hóa quy hoạch không gian biển, thúc đẩy kinh tế biển xanh và giảm thiểu mâu thuẫn trong khai thác tài nguyên.
Trong nhiệm kỳ vừa qua, dưới sự chỉ đạo sát sao của Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường, khung thể chế phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển từng bước được hoàn thiện. Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến 2030, tầm nhìn 2045; Nghị quyết số 139/2024/QH15 về Quy hoạch không gian biển quốc gia; và Nghị quyết số 48/NQ-CP của Chính phủ về khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển – hải đảo đã tạo nền tảng cho mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Tầm nhìn này nhấn mạnh vai trò quản lý tổng hợp như một phương thức quản trị hiện đại, loại bỏ chồng chéo, tăng hiệu quả phối hợp giữa các ngành, địa phương và Trung ương; tối ưu hóa nguồn lực, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
Cơ hội và thách thức mới
Bên cạnh kết quả đạt được, thực tiễn triển khai vẫn đối diện nhiều thách thức: nguy cơ chồng lấn quy hoạch, thiếu thông tin, quản lý phân mảnh. Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; cùng Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế đã mở ra xung lực mới cho công tác quản lý biển hiện đại coi khoa học, công nghệ là động lực then chốt và đổi mới sáng tạo là yếu tố bứt phá.
Việc triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW về sáp nhập các tỉnh ven biển cũng mở rộng phạm vi trách nhiệm quản lý, tạo cơ hội liên kết vùng hiệu quả hơn, song đặt ra yêu cầu xây dựng năng lực quản trị hiện đại, chia sẻ dữ liệu đồng bộ. Đây là cơ hội để tối ưu quy hoạch không gian biển, thúc đẩy kinh tế biển xanh nhưng đồng thời là thách thức về điều chỉnh cơ chế quản lý, cập nhật mục tiêu phát triển, đảm bảo chiến lược triển khai đồng bộ, hiệu quả.
Định hướng trọng tâm đến 2030
Hướng tới mốc 100 năm thành lập Đảng (2030) và mục tiêu quốc gia phát triển thu nhập cao (2045), Đảng bộ Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đặt mục tiêu trở thành trung tâm điều phối thực hiện các mục tiêu quốc gia về biển mạnh, bền vững, thịnh vượng, an toàn và có trách nhiệm.
Bốn định hướng trọng tâm được xác định, đó là hoàn thiện thể chế quản lý tổng hợp biểnXây dựng khung pháp lý hiện đại, tích hợp và có hiệu lực cao, từ pháp luật đến quy hoạch và cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng, liên cấp, nhất là sau khi sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh. Đẩy nhanh nội luật hóa Công ước Luật Biển 1982 (UNCLOS) và Hiệp định BBNJ 2025, bảo đảm minh bạch, thống nhất và dựa trên bằng chứng khoa học.
Củng cố cơ chế chỉ đạo, điều phối thống nhất, tăng cường vai trò, nguồn lực cho Văn phòng cơ quan thường trực Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển bền vững kinh tế biển; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ tổng hợp, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra. Thúc đẩy phân cấp gắn với giám sát, hỗ trợ năng lực quản lý biển cho địa phương, đặc biệt các tỉnh mới sáp nhập.
Xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực then chốt, phát huy vai trò trung tâm trong tiếp nhận, lan tỏa công nghệ biển tiên tiến, tập trung vào thăm dò biển sâu, năng lượng tái tạo ngoài khơi, hướng tới “phương thức sản xuất số” mới, nâng cao tự chủ công nghệ và tạo giá trị kinh tế đột phá.
Chuyển từ “tham gia” sang “đồng kiến tạo và dẫn dắt” sáng kiến toàn cầu, chủ động đưa sáng kiến Việt Nam ra quốc tế. Tăng cường hợp tác đa phương, kết nối chặt chẽ giữa các bộ ngành, giữa Trung ương và địa phương, khuyến khích địa phương có biển tham gia sâu vào hoạt động khu vực và quốc tế.
Khát vọng vươn khơi
Để hướng tới những mục tiêu trong những năm tới, Cục Biển và Hải đảo kiến nghị Chính phủ, Bộ, các địa phương rà soát, hoàn thiện khung pháp lý, thể chế, quy hoạch quản lý tổng hợp biển, đảo; nội luật hóa các điều ước quốc tế; sớm ban hành cơ chế giám sát thực thi; Nâng cao vai trò điều phối liên ngành, liên vùng; phân cấp gắn với cơ chế giám sát minh bạch; Thúc đẩy hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực đàm phán, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; đăng cai các diễn đàn, hội nghị biển quy mô lớn; Ưu tiên nguồn lực tài chính cho khoa học, công nghệ biển, đặc biệt nghiên cứu biển sâu; xây dựng nền tảng dữ liệu không gian biển số hóa, liên thông, thông minh.
Bên cạnh đó, tham mưu Chính phủ bổ nhiệm Đặc phái viên hoặc chức danh ngoại giao chuyên trách về biển tại các tổ chức quốc tế và đại sứ quán ở quốc gia biển mạnh.
Chủ trì xây dựng các đề án quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học biển gắn với phát triển kinh tế biển xanh, lồng ghép vào quy hoạch kinh tế - xã hội và các cam kết quốc tế; Xây dựng cơ chế khuyến khích địa phương ven biển áp dụng mô hình quản lý tổng hợp phù hợp đặc thù; chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực chất lượng cao; thiết lập cơ chế giám sát minh bạch để bảo đảm hiệu quả và thúc đẩy liên kết vùng bền vững.
Trong bối cảnh khoa học, công nghệ trở thành đòn bẩy, hội nhập quốc tế là kênh dẫn truyền sức mạnh, công tác quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo sẽ góp phần nâng tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế, hiện thực hóa khát vọng biển lớn của dân tộc.
Đứng trước giai đoạn phát triển mới, với cơ hội lớn song hành thách thức phức tạp, nhiệm vụ của Đảng bộ Cục Biển và Hải đảo Việt Nam là nặng nề nhưng vinh dự. Với tinh thần đổi mới, trách nhiệm và khát vọng cống hiến, toàn thể cán bộ, đảng viên quyết tâm đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển vào năm 2030, đóng góp vào mục tiêu xây dựng đất nước phồn vinh, hùng cường, có uy tín và trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.