| Hotline: 0983.970.780

Những chính sách mở đường cho sản xuất lớn

Chủ Nhật 16/11/2025 , 15:47 (GMT+7)

GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khóa XIV, XV chia sẻ về những thành tựu to lớn của ngành Nông nghiệp và Môi trường và các quyết sách mang tính khai mở gần đây.

Những bước tiến thần kỳ của nông nghiệp!

Thưa GS.TS, 80 năm qua, nền nông nghiệp Việt Nam đã có sự trưởng thành, thay đổi vượt bậc cả về lượng và chất. Theo ông, những thành tựu của ngành nông nghiệp Việt Nam có được từ những nhân tố nào?

Trước hết, chúng ta phải thấy nông nghiệp Việt Nam trong 80 năm qua đã có sự phát triển rất mạnh mẽ. Khi mới thành lập nước, chúng ta  phải đối mặt với nạn đói, hơn 2 triệu đồng bào bị chết vì đói. Khi thống nhất đất nước, chúng ta vẫn còn là quốc gia thiếu lương thực. Những năm 70, 80 chúng ta vẫn phải trông chờ vào viện trợ lương thực của các nước…

GS.TS Hoàng Văn Cường. Ảnh: Đình Trung.

GS.TS Hoàng Văn Cường. Ảnh: Đình Trung.

Tuy nhiên, sau khi có Khoán 10, nền nông nghiệp đã lột xác và có bước phát triển thần kỳ. Từ một quốc gia thiếu ăn trở thành nước xuất khẩu nông sản có thứ hạng trên thế giới. Đặc biệt, chúng ta có nhiều mặt hàng như cà phê, lúa gạo…, trở thành những sản phẩm xuất khẩu nhiều triệu USD.

Cho đến hôm nay, khi nói đến những vấn đề đột phá trong phát triển kinh tế Việt Nam, người ta vẫn nhắc tới cột mốc Khoán 10, lấy hình ảnh nông nghiệp như là một ví dụ điển hình. Đó là những phát kiến thần kỳ.  

Nông nghiệp trở thành trụ đỡ của nền kinh tế bởi các lẽ: đóng góp của nông nghiệp trong tổng thu nhập kinh tế quốc dân không cao; tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp cũng không phải lớn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng đó là sự tăng trưởng ổn định, vững bền.

Nông nghiệp đã có những bước tiền thần kỳ sau 80 năm phát triển. Ảnh: Thái Bình.

Nông nghiệp đã có những bước tiền thần kỳ sau 80 năm phát triển. Ảnh: Thái Bình.

Vai trò đặt biệt quan trọng của nông nghiệp ở chỗ: chính nhờ vào tính bền vững, cung cấp khá đầy đủ, toàn diện các lĩnh vực thiết yếu: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng… tạo ra sự ổn định của nền kinh tế - xã hội. Những giai đoạn khó khăn nhất như đại dịch, khủng hoảng kinh tế…, chính nông nghiệp là nơi tạo ra sự ổn định đời sống người dân. Những sản phẩm nông nghiệp chúng ta sản xuất ra là yếu tố giúp giữ ổn định chỉ số CPI. Những năm thế giới siêu lạm phát, giá cả hàng hóa biến động rất mạnh nhưng đời sống người dân Việt Nam bị tác động rất ít, thậm chí có thể nói là không bị ảnh hưởng.

Bên cạnh đó, nông nghiệp đóng góp vào tăng trưởng của các ngành quan trọng khác, điển hình như xuất khẩu. Nhiều nông sản của Việt Nam đã có vị thế, uy tín trên trường quốc tế, được đánh giá rất cao, đặc biệt ở những thị trường khó tính. Thậm chí, nhiều sản phẩm nông sản có sức cạnh tranh rất cao nên phải chịu không ít những rào cản. Chỉ số xuất khẩu nông sản 10 năm qua luôn tăng trưởng đều, ổn định mang lại thu nhập tạo sự phát triển vững chắc.

Nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn: xu thế tất yếu!

Việt Nam đang triển khai rất nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả, bền vững như canh tác 1 triệu ha lúa chất lượng cao, giảm phát thải; vùng tái canh cà phê theo hướng hữu cơ, sinh thái; những vựa trái cây, hoa quả dịch chuyển từ khu vực ĐBSCL ra các tỉnh miền núi phía Bắc… Theo ông, hướng đi này cần hướng tới những vấn đề trọng tâm gì, thưa ông?

Nông nghiệp Việt Nam có được thành quả như ngày hôm nay bởi rất nhiều nhân tố mà quan trọng nhất đó là điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu, nguồn nước… đặc thù, tạo cho chúng ta tiềm năng phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới, sinh thái, đa dạng hóa cơ cấu cây trồng vật nuôi. Các mùa trong năm hình thành nên cơ cấu mùa vụ… mà không phải quốc gia nào cũng có. Nếu chúng ta muốn tiếp tục duy trì những lợi thế này thì cần có chiến lược khai thác phù hợp, sử dụng và bảo vệ những đặc tính sinh thái đó. Nếu chúng ta lựa chọn phương thức khai thác theo hướng ngược lại, tạo ra những tác động làm mất sự mất cân bằng ấy đi, như lạm dụng hóa chất - thuốc bảo vệ thực vật… sẽ mất đi những lợi thế làm nên tính cạnh tranh cao của nông sản Việt. Do vậy  cần phải có chiến lược, định hướng, kế hoạch phát triển phù hợp. Con đường chúng ta lựa chọn đó là con đường xanh, cân bằng sinh thái.

Kỳ tích của ngành trồng trọt: từ đất nước thiếu lương thực, Việt Nam đã là cường quốc xuất khẩu lúa gạo. Ảnh: PAN.

Kỳ tích của ngành trồng trọt: từ đất nước thiếu lương thực, Việt Nam đã là cường quốc xuất khẩu lúa gạo. Ảnh: PAN.

Hiện nay đang đặt ra xu thế chuyển đổi xanh trong nông nghiệp. Sản phẩm tạo ra từ nông nghiệp xanh có giá trị cao hơn nhiều lần sản phẩm nông nghiệp thông thường. Thị trường càng cao cấp, thu nhập của người nông dân càng cao. Người tiêu dùng sẵn sàng và đủ khả năng chi trả cho sản phẩm hữu cơ sinh thái. Đây là một lợi thế và là mục tiêu để chúng ta chuyển theo hướng nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ, duy trì những điều kiện sản xuất sạch chính là khai thác tốt nhất những lợi thế mà chúng ta đang có.

Chúng ta tự tin có nhiều tiềm năng để thực hiện xu thế đó. Nông nghiệp của Việt Nam vẫn chưa lạm dụng hay khai thác quá nhiều các yếu tố tự nhiên, chưa lạm dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật… nên chưa có những hệ lụy xấu, do đó chuyển sang phát triển nông nghiệp xanh thì cũng hoàn toàn phù hợp, chưa bị động, và là sự chuyển đổi một cách tự thân.

Ngoài ra nó còn mang lại giá trị cho chính những người canh tác tạo ra sản phẩm đó là sức khỏe, môi trường sống trong lành… 

Để thúc đẩy được con đường này chúng ta cần rất nhiều yếu tố: chuyển đổi xanh cần chi phí đầu tư rất lớn, gấp nhiều lần so với mô hình sản xuất truyền thống. Nếu không xây dựng được vùng sản xuất quy mô thì sẽ rất khó để đầu tư máy móc, phương tiện hiện đại, ứng dụng khoa học công nghệ… vào sản xuất và không ai dám đầu tư lâu dài. Ngay như việc cung cấp cây con giống, nước tưới, kiểm soát các yếu tố gây hại… phải có vùng trồng ổn định, diện tích lớn thì mới có thể triển khai đồng bộ được. Tiếp đó là các vấn đề cấp mã số vùng trồng, chỉ dẫn địa lý, công nghệ chế biến sau thu hoạch.

Tôi lấy ví dụ: một nông dân bỏ tiền đầu tư mua máy móc cơ giới hóa, drone phun thuốc sâu…, những thiết bị này chỉ sử dụng theo mùa vụ, qua thời điểm thì sẽ lại cất vào kho. Điều này rất lãng phí. Vậy phải có vùng sản xuất quy mô lớn mới có thể khai thác hết giá trị sử dụng của những thiết bị này.

Giải phóng nguồn lực đất đai mở đường cho nông nghiệp quy mô lớn!

Các định hướng, cơ chế chính sách đối với nông nghiệp cần có tầm nhìn dài hạn do đầu tư vào nông nghiệp mang tính chất dài hơi, phải rất lâu mới có thể thu hồi vốn. Để những người sản xuất nông nghiệp dám bỏ tiền đầu tư lĩnh vực này, người nông dân cần sự ổn định về cả những yếu tố này, thưa ông?

Nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL.

Nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL.

Trước đây chúng ta có quan niệm: sản xuất nông nghiệp là mùa vụ, theo chu kỳ của cây trồng vật nuôi nên chu kỳ canh tác được hiểu là đầu tư ngắn hạn chứ không phải đầu tư dài hạn. Do đó, các định hướng, chính sách nông nghiệp cụ thể thường là ngắn hạn. Đấy là nền nông nghiệp theo tính chất tự nhiên, riêng lẻ.

Bây giờ chúng ta đang chuyển hướng nông nghiệp hiện đại, có quy trình, quy chuẩn, có các bộ tiêu chí rất chặt chẽ, nghiêm ngặt…, đầu tư nông nghiệp không khác gì đầu tư công nghiệp. Hạ tầng nông nghiệp, hệ thống tưới tiêu, thủy lợi đòi hỏi chi phí lớn, lâu dài, phải vài chục năm mới khai thác hết giá trị, công suất của nó.

Giá trị của sản phẩm nông nghiệp không chỉ nằm ở việc sản xuất trồng trọt chăn nuôi ra cái gì, sản lượng bao nhiêu… mà nó nằm ở khâu chế biến sau thu hoạch, nằm ở việc tiêu thụ nông sản. Một sản phẩm nông nghiệp tiêu thụ trong nước giá rất thấp nhưng nếu có phương án bảo quản, chế biến… để xuất sang thị trường cao cấp, giá trị của nó lớn hơn rất nhiều lần. Để đầu tư cơ sở, nhà máy chế biến nông sản phải bỏ vốn đầu tư lớn, phải có vùng nguyên liệu đầu vào, yêu cầu chặt chẽ, khắt khe về chất lượng nông sản trước và sau chế biến. Đó là một quy trình khép kín,

Nó đặt ra yêu cầu hết sức quan trọng, đó là điều kiện tối thiểu, cần thiết về đất đai cho nông nghiệp, phải được giao dài hạn. Trước kia giao quyền sử dụng đất nông nghiệp 10 năm, 20 năm rồi sau đó sẽ giao lại. Như thế không tạo sự ổn định về vùng trồng từ đó dẫn tới tâm lý không ai dám đầu tư lớn để xây dựng hạ tầng nông nghiệp. Quy mô quá nhỏ thì không đủ khai thác hết công suất máy móc, phương tiện.

Chính sách đất đai nông nghiệp đòi hỏi phải có cơ chế tích tụ ruộng đất, thời hạn sử dụng đất nông nghiệp kéo dài, theo tôi 50 năm cũng chưa phải là dài mà cần có khoảng thời gian hơn nữa, như thế những người đầu tư mới yên tâm. Đầu tư nông nghiệp không phải chỉ đầu tư về giống, vật tư, thức ăn chăn nuôi, phân bón…, mà đầu tư hạ tầng, kỹ thuật, cơ sở sản xuất chế biến mới là những hạng mục đầu tư lớn.

Cà phê...

Cà phê...

và lúa gạo. Hai sản phẩm chủ lực của nông nghiệp Việt Nam.

và lúa gạo. Hai sản phẩm chủ lực của nông nghiệp Việt Nam.

Hiện nay chúng ta đang khuyến khích các doanh nghiệp nông nghiệp mở rộng đầu tư, được quyền chuyển nhượng đất đai…; các chính sách mới ưu đãi đối với nông nghiệp: nông dân được miễn giảm các loại thuế; doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp được hưởng thuế ưu đãi… Đấy là những chính sách chúng ta đang hướng đến để xây dựng nền nông nghiệp tập trung, quy mô lớn.

Nông nghiệp như ông vừa phân tích, vai trò của các doanh nghiệp đầu tầu, tập đoàn lớn, trách nhiệm xã hội của họ là gì, thưa ông?

Nông nghiệp là ngành sản xuất có tính chu kỳ, thời vụ do đó các phương tiện, máy móc đầu tư sản xuất nông nghiệp không được sử dụng một cách liên tục, luôn có một thời kỳ nhàn rỗi, luôn tạo ra tình trạng dư thừa, tính chất thời vụ trong sử dụng phương tiện, công cụ sản xuất của ngành nông nghiệp. Đầu tư mà để đó thì rõ ràng là lãng phí, tiền vốn ứ đọng, hiệu quả không thể cao.

Tuy nhiên, khả năng làm chủ trong nông nghiệp lại khá dễ dàng nếu như ta quản lý tốt, biết ứng dụng khoa học kỹ thuật… có thể tính toán được lợi nhuận đầu tư nông nghiệp sẽ mang lại giá trị là bao nhiêu. Trong công nghiệp, nếu anh bỏ 1kg đường sẽ tính toán ra được bao nhiêu viên kẹo, và sẽ chỉ như vậy. Nhưng nông nghiệp lại khác: đầu tư một cây/con giống sẽ được nhân lên, sinh sôi, nảy nở, rất thú vị và có sự hấp dẫn riêng.

"Chính sách bền vững + công nghệ hiện đại = sức bật"

Những nhà đầu tư lớn, các doanh nghiệp, tập đoàn nông nghiệp sẽ xây dựng được các vùng sản xuất lớn, đồng bộ, bài bản để từ đó hình thành chuỗi sản xuất tạo ra giá trị lớn. Họ chủ động kiểm soát được dịch bệnh mà không phụ thuộc vào nhà nước. Các đợt dịch bệnh trong trồng trọt, chăn nuôi, dịch tả lợn Châu Phi…, các hộ cá thể bị ảnh hưởng rất nhiều. Nhưng, các tập đoàn nông nghiệp lớn thì không. Họ có phương án, kế hoạch, chủ động phòng trừ dịch bệnh ngay từ đầu cho nên khi dịch bệnh xảy ra, họ đã xây dựng được vùng an toàn cho đàn vật nuôi của mình, chủ động kiểm soát được dịch bệnh.

Các tập đoàn nông nghiệp lớn có đầy đủ các yếu tố để sản xuất lớn: từ vùng canh tác, khoa học kỹ thuật, máy móc phương tiện nông nghiệp, cơ sở chế biến, đặc biệt họ chủ động thiết lập và xây dựng vùng tiêu thụ, đầu ra cho sản phẩm. Họ làm chủ chuỗi sản xuất của mình từ đầu vào cho tới đầu ra, quản lý từ gốc cho tới ngọn nên họ có thể xây dựng được mức giá của sản phẩm để đảm bảo bao giờ cũng có lợi nhuận. Nếu các hộ sản xuất cá thể, nhỏ lẻ hợp tác với họ sẽ có nhiều lợi thế: trở thành một mắt xích ở một khâu/chuỗi sản xuất, liên kết sản xuất; trồng/nuôi gia công cho các doanh nghiệp; sản phẩm làm ra, doanh nghiệp sẽ thu mua bao tiêu, thậm chí doanh nghiệp cung cấp giống, vật tư, quy trình công nghệ chăm sóc, người nông dân chỉ việc thực hiện và được hưởng lợi trong công đoạn mà mình tham gia.

Vấn đề cốt yếu trong sản xuất nông nghiệp đó là đầu ra cho sản phẩm, công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Chỉ có doanh nghiệp mới đủ lực để thực hiện những công đoạn cuối này. Người nông dân chưa chủ động được, vậy thì bắt tay, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, biến mình trở thành một mắt xích trong khâu đoạn của quá trình sản xuất tuần hoàn, khép kín, tạo thành một hệ sinh thái hữu cơ trong sản xuất.

Những lợi thế này đặt ra xu thế, trong sản xuất nông nghiệp chỉ có những tập đoàn, doanh nghiệp lớn mới tạo ra được sản phẩm quy mô, chất lượng ổn định từ đó đảm bảo sự ổn định của thị trường. Họ không chỉ mang lại giá trị cho chính mình mà còn đảm bảo sự ổn định của xã hội. Họ sẽ khai thác, sử dụng các lợi thế, điều kiện tự nhiên một cách hiệu quả nhất, là những người nghĩ lớn, làm lớn.

Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế mở. Muốn có giá trị kinh tế gia tăng cao thì chúng ta phải hướng tới xuất khẩu, hướng ra thị trường quốc tế. Sản xuất nông nghiệp càng phải hướng tới yếu tố này bởi khi đã trở thành nông nghiệp hàng hóa, sản lượng sản xuất ra nó là một khối lượng khổng lồ, nếu chỉ tiêu thụ trong nước thì không hết, phải được chế biến sau thu hoạch, có phương án, công nghệ bảo quản để xuất khẩu. Muốn đưa được hàng hóa của ta vào thị trường cao cấp, chúng ta phải tuân thủ các quy chuẩn của quốc tế đặt ra. IUU, EUDR… là những quy định ngặt nghèo như thế buộc chúng ta phải tuân thủ luật chơi.

GS.TS Hoàng Văn Cường. Ảnh: Đình Trung.

GS.TS Hoàng Văn Cường. Ảnh: Đình Trung.

Có thời điểm chúng ta xây dựng các mô hình nhà lồng, nhà lưới, nhà kính để trồng rau củ quả, tách biệt hoàn toàn tự nhiên và nghĩ như thế là an toàn, là sạch. Yêu cầu ngày nay đã khác và đã thay đổi, đó là nền nông nghiệp thích nghi các điều kiện tự nhiên đó, có đầy đủ các tính chất nắng, gió, mưa… chứ không phải trốn tránh tự nhiên, sản phẩm nông nghiệp phải vượt trội lên những yếu tố tự nhiên, cân bằng với môi trường, thích ứng với môi trường, không tìm cách chống lại môi trường tự nhiên.

Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học công nghệ; Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân vừa được ban hành, theo ông, sẽ có những tác động như thế nào trong lĩnh vực nông nghiệp môi trường? 

Trước hết, Nghị quyết 57 là Nghị quyết mở đường cho sự phát triển dựa vào khoa học công nghệ để tạo ra những giá trị gia tăng mới. Lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều dư địa để có thể áp dụng khoa học công nghệ. Như quả vải, hiện tại thời gian chín của nó khoảng 1 tháng, nếu ta ứng dụng khoa học công nghệ để kéo dài thời gian thu hoạch, có công nghệ bảo quả để xuất khẩu tới tay người tiêu dùng vẫn còn tươi như vừa thu hoạch, rõ ràng giá trị kinh tế mang lại sẽ rất cao.

Hay các tiềm năng sinh học, giống cây trồng mới. Xu thế hiện nay nhiều người đang hướng tới nhu cầu thực dưỡng, nghĩa là sử dụng vừa phải nhưng vẫn đảm bảo sức khỏe. Giữa nông nghiệp và nghiên cứu khoa học công nghệ liên kết với nhau sẽ đẩy giá trị lên mà không cần mở rộng diện tích vùng trồng.

Nghị quyết 57 mở ra cho nông nghiệp rất nhiều cơ hội. Phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp không phải giống như việc cơ giới hóa, mua 1 cái máy cày về sản xuất, quy mô lớn thì mua máy cày công suất lớn, quy mô diện tích nhỏ thì mua máy nhỏ. Những ai sẽ đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp? Chính là các doanh nghiệp nông nghiệp. Nhà nước sẽ chỉ đầu tư những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Nghị quyết 68 chính là cởi trói, mở cửa và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đầu tư nông nghiệp. Sẽ có những cơ chế chính sách để tạo chỗ đứng cho doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao phát triển. Có những doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam khi ra nước ngoài đầu tư họ phát triển rất rực rỡ, những trang trại chuối bạt ngàn bên Lào, những trang trại bò sữa quy mô lớn bên Nga… Đó là những vùng sản xuất nông nghiệp rộng lớn hiện đại, đủ điều kiện, không gian để họ đầu tư, phát triển nông nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu.

Tựu chung lại, trong hoàn cảnh nào thì nông nghiệp cũng tạo ra sự ổn định, cân bằng cho nền kinh tế. Do đó cần có chiến lược tốt, định hướng tốt để đảm bảo cho trụ đỡ đó được ổn định bền vững.

Xin cảm ơn GS.TS!

GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khóa XIV, XV; nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội; Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư Nhà nước  nhiệm kỳ 2024 - 2029, Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Hà Nội chia sẻ với Báo Nông nghiệp và Môi trường.

thực hiện

Xem thêm
Khánh thành công trình tôn tạo Di tích Quốc gia đặc biệt hang Tám Cô

Quảng Trị Công trình tôn tạo Di tích Quốc gia đặc biệt hang Tám Cô-Đường 20 Quyết Thắng khởi công ngày 28/9/2025, hoàn thành đúng dịp tưởng niệm 53 năm ngày hy sinh của 13 Liệt sĩ.

Những chính sách mở đường cho sản xuất lớn
Thời sự 11 giây trước