Trước nhận định thời cơ cách mạng đã chín muồi, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.

Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang), nơi diễn ra Đại hội Quốc dân do Việt Minh triệu tập, ngày 16/8/1945, thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định Quốc kỳ, Quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ảnh: Tư liệu TTXVN.
Ngày 12/8/1945, Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng ra mệnh lệnh khởi nghĩa cho các đơn vị vũ trang, Ủy ban nhân dân cách mạng và toàn thể nhân dân trong Khu.
Ngày 13/8/1945 sau khi được tin Hội đồng Chiến tranh tối cao và Nội các Nhật quyết định đầu hàng Đồng minh không điều kiện, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”[1] và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.
Hội nghị đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: “Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính. Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy. Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội”[2].
Trên cơ sở đó, ngay trong đêm 13/8, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập và ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa cho quân và dân cả nước: “Hỡi quân dân toàn quốc!... Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!”[3]. Bản Quân lệnh thông báo việc thành lập Ủy ban khởi nghĩa và kêu gọi toàn thể nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng hãy hành động theo mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa để giành thắng lợi hoàn toàn.
Ngày 14/8, Tổng bộ Việt Minh ra lời “Hiệu triệu”. Bản Hiệu triệu nêu rõ phát xít Nhật đã đầu hàng, quân Đồng minh sắp vào Đông Dương. Hiệu triệu kêu gọi: “Trước cơ hội có một không hai ấy, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân Giải phóng Việt Nam, tung xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do, hạnh phúc cho nhân dân!”[4].
Từ ngày 16/8 đến ngày 17/8 năm 1945, Đại hội đại biểu nhân dân cả nước (Quốc dân đại hội) họp tại Tân Trào nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh; quy định Quốc kỳ, Quốc ca; cử ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam đã ra lời “Hiệu triệu”: “Ngày vĩ đại và quyết liệt của dân tộc đã đến. Chúng ta hãy vùng dậy tuốt gươm lắp súng để định đoạt lấy số phận của mình. Chúng ta quyết thắng và sẽ thắng!”[5]. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi Nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ” [6].

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên tổng khởi nghĩa. Ảnh tư liệu.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14/8 đến ngày 18/8, tại nhiều địa phương, nhân dân đã nổi dậy giành chính quyền xong ở xã, huyện; đồng thời, các đơn vị Giải phóng quân và du kích tập trung từ chiến khu tỏa về các địa phương tiến công địch, hỗ trợ nhân dân khởi nghĩa. Một số cấp bộ Đảng và tổ chức Việt Minh tuy chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa do thông tin liên lạc khó khăn, nhưng căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương và thực hiện Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã phát động nhân dân khởi nghĩa.
Ở Quảng Ngãi, từ ngày 14/8, du kích và tự vệ liên tiếp giải phóng các huyện Trà Bồng, Ba Tơ, Minh Long, Đức Phổ, đánh chiếm các đồn Di Lăng, Sơn Hà, phục kích quân Nhật ở Xuân Phổ, Mỏ Cày rồi tiến về bao vây quân Nhật ở thị xã.
Ngày 16/8, một chi đội Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy xuất phát từ Tân Trào tiến về thị xã Thái Nguyên, hỗ trợ nhân dân tuần hành thị uy, buộc Tỉnh trưởng Thái Nguyên, Huyện trưởng Đồng Hỷ và Đồn trưởng bảo an binh đầu hàng, thu 600 súng; đồng thời nổ súng tiến công và xiết chặt vòng vây xung quanh trại lính Nhật, buộc quân Nhật phải chấp nhận rút về Hà Nội.
Ngày 17/8, lực lượng Giải phóng quân tiến đánh quân Nhật ở thị xã Tuyên Quang. Sau 4 ngày bị bao vây, tiến công, quân Nhật ở đây phải xin điều đình và rút quân. Tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, sau khi giải phóng hầu hết các xã, huyện, lực lượng giải phóng quân hạ các đồn binh Nhật còn lại, rồi tiến về phối hợp với nhân dân, tự vệ giải phóng các thị xã.
Ngày 18/8, nhân dân và tự vệ các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị. Đây là 4 địa phương giành được chính quyền tỉnh sớm nhất trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

Cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn ngày 19/8/1945. Ảnh tư liệu.
Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa ngày 19/8 ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, góp phần thúc đẩy, cổ vũ và đóng góp kinh nghiệm quý để nhân dân các tỉnh, thành từ Bắc đến Nam liên tiếp đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền; tạo điều kiện để các cơ quan Trung ương về Thủ đô Hà Nội tiếp tục chỉ đạo cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước giành thắng lợi hoàn toàn
Ở Hà Nội, chiều ngày 17/8/1945, quần chúng nội, ngoại thành tổ chức mít tinh tại Nhà hát Lớn, sau đó xếp thành đội ngũ đi từ Nhà hát Lớn qua các phố trung tâm và hô vang khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh!”, “Đả đảo bù nhìn!”, “Việt Nam độc lập!”. Trong 2 ngày 17 và 18/8, các xã ngoại thành khởi nghĩa thắng lợi. Ngày 18/8, cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên các đường phố chính của Hà Nội. Theo chủ trương của Trung ương và căn cứ diễn biến thực tế, Xứ ủy Bắc Kỳ cùng với Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội quyết định tổng khởi nghĩa ở Hà Nội vào ngày 19/8/1945.
Ngày 19/8, hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành xuống đường biểu dương lực lượng, cùng với tự vệ cứu quốc trong nội thành tập trung dự cuộc mít tinh do Mặt trận Việt Minh tổ chức ở Quảng trường Nhà hát thành phố. Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành biểu tình thị uy; quần chúng cách mạng có các đội tự vệ chiến đấu dẫn đầu tỏa đi các hướng chiếm Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở Bưu điện, Trại Bảo an binh...
Trước sức mạnh áp đảo của quần chúng và lực lượng tự vệ, hầu hết các công sở chính quyền Bảo Đại - Trần Trọng Kim đều nhanh chóng về tay Nhân dân.
Tối 19/8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
Ngày 20/8, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Bắc Bộ và Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Hà Nội chính thức thành lập. Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa ngày 19/8 ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, góp phần thúc đẩy, cổ vũ và đóng góp những kinh nghiệm quý để nhân dân các tỉnh, thành từ Bắc đến Nam liên tiếp đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền; tạo điều kiện để các cơ quan Trung ương về Thủ đô Hà Nội tiếp tục chỉ đạo cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước giành thắng lợi hoàn toàn.
Ngay trong ngày 19/8, khởi nghĩa thành công ở các tỉnh Thái Bình, Phúc Yên, Khánh Hòa. Từ ngày 20 đến ngày 22/8, khởi nghĩa liên tiếp giành thắng lợi ở các tỉnh lỵ Bắc Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình, Thanh Hóa (20/8); Bắc Kạn, Yên Bái, Tuyên Quang, Sơn Tây, Nam Định, Nghệ An, Ninh Thuận (21/8); Cao Bằng, Hưng Yên, Kiến An, Tân An (22/8).
Khởi nghĩa thắng lợi ở ba thành phố lớn (Hà Nội, Huế, Sài Gòn) đã tác động mạnh đến các địa phương trong cả nước. Nhiều nơi, từ miền núi, nông thôn đến thành thị nối tiếp nhau khởi nghĩa giành thắng lợi.
Ở Huế, ngày 20/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập, Ủy ban quyết định giành chính quyền vào ngày 23/8. Để cuộc khởi nghĩa bảo đảm thắng lợi, từ chiều 21/8, Đảng bộ Việt Minh Thừa Thiên - Huế đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình thị uy trong thành phố. Ngày 23/8, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung Kỳ và Tỉnh ủy Thừa Thiên, hơn mười vạn nhân dân thành phố Huế và các huyện ở Thừa Thiên đã nổi dậy chiếm các công sở của ngụy quyền Triều đình Huế và buộc Vua Bảo Đại phải chấp nhận thoái vị. Khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế thắng lợi nhanh chóng và không đổ máu.
Cũng trong ngày 23 và 24/8, khởi nghĩa nổ ra và giành thắng lợi ở Hải Phòng, Hoà Bình, Hà Đông, Hà Nam, Quảng Yên (Bắc Bộ); Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Yên (Trung Bộ); Bạc Liêu, Gò Công, Mĩ Tho (Nam Bộ).

Nhân dân các địa phương vùng lên giành chính quyền trong những ngày Cách mạng tháng Tám sôi sục. Ảnh Tư liệu TTXVN.
Tại Sài Gòn, được tin khởi nghĩa đã thắng lợi ở Hà Nội, Huế và nhiều nơi khác, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định phát động khởi nghĩa ở Sài Gòn vào ngày 24/8. Theo đó, đêm 24/8, các đội xung kích của công đoàn, thanh niên tiên phong cùng quần chúng cách mạng đồng loạt đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu; đồng thời, hàng trăm nghìn nhân dân ngoại thành Sài Gòn và các tỉnh lân cận rầm rộ tiến về thành phố Sài Gòn.
Sáng 25/8, hơn 1 triệu người biểu tình tuần hành qua các đường phố rồi tập trung dự cuộc mít tinh lớn để chào mừng Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ mới được thành lập. Khởi nghĩa kết thúc thắng lợi nhanh chóng bằng sức mạnh của quần chúng cách mạng, không phải nổ súng.
Khởi nghĩa thắng lợi ở ba thành phố lớn (Hà Nội, Huế, Sài Gòn) đã tác động mạnh đến các địa phương trong cả nước. Nhiều nơi, từ miền núi, nông thôn đến thành thị nối tiếp nhau khởi nghĩa giành thắng lợi.
Cùng ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở các tỉnh lị Chợ Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc, Tây Ninh (Nam Bộ); Kon Tum, Bình Thuận (Trung Bộ), Phú Thọ, Lạng Sơn (Bắc Bộ).
Trong các ngày 26 đến 28/8, khởi nghĩa tiếp tục diễn ra thắng lợi ở Hòn Gai, Sơn La, Cần Thơ, Biên Hòa (26/8); Rạch Giá (27/8); Quảng Ngãi, Hà Tiên, Đồng Nai Thượng (28/8).
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Chiều ngày 30/8/1945, trong cuộc mít tinh của hàng vạn quần chúng trước cửa Ngọ Môn, Vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị và nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời. Chế độ phong kiến Việt Nam kéo dài hàng nghìn năm hoàn toàn sụp đổ.

Chiều ngày 30/8/1945, trong cuộc mít tinh của hàng vạn quần chúng trước cửa Ngọ Môn, Vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị và nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời. Chế độ phong kiến Việt Nam kéo dài hàng nghìn năm hoàn toàn sụp đổ. Ảnh Tư liệu.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr.424.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr.425.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr.421.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr.558.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr.562 - tr.563.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr.418.