Từ rào cản thành chìa khóa xuất khẩu
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, việc tuân thủ các quy định SPS (biện pháp về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật) đã trở thành điều kiện tiên quyết để nông, lâm, thủy sản Việt Nam tiếp cận và duy trì thị trường xuất khẩu. Đây không còn là rào cản đơn thuần mà còn là "giấy thông hành", là thước đo năng lực sản xuất và truy xuất nguồn gốc của mỗi quốc gia.
TS Ngô Xuân Nam, Phó Giám Đốc Văn phòng SPS Việt Nam cho rằng, việc minh bạch hóa các quy định SPS, đồng hành cùng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, sẽ quyết định sự thành bại trong chiến lược xuất khẩu bền vững. Tuân thủ và đáp ứng các rào cản kỹ thuật không còn là chuyện riêng của từng doanh nghiệp mà trở thành thách thức chung của toàn ngành.
TS Ngô Xuân Nam, Phó Giám Đốc Văn phòng SPS Việt Nam. Ảnh: Bảo Thắng.
Theo ông Nam, ứng xử với SPS giống như lên thực đơn cho bếp ăn thế giới. “Muốn nấu món ăn ngon cho thị trường toàn cầu, chúng ta phải hiểu khẩu vị, sở thích, tiêu chuẩn vệ sinh của từng khách mời. Không thể mang món ngon của mình ra rồi kỳ vọng cả thế giới phải chấp nhận”, ông chia sẻ.
Thực tế thời gian qua cho thấy, không ít doanh nghiệp rơi vào tình trạng “mất cả lô hàng” chỉ vì một sai sót nhỏ trong việc thực hiện truy xuất nguồn gốc, nhãn mác, hay khai báo dư lượng thuốc BVTV. Một khi đã vi phạm, thậm chí cả ngành hàng sẽ bị nâng tần suất kiểm tra, khiến chi phí tăng cao và khả năng tiếp cận thị trường bị giảm sút nghiêm trọng.
Dù về bản chất là chính đáng, SPS lại có thể trở thành rào cản lớn nếu không được phổ biến, hướng dẫn và giải thích một cách thấu đáo cho các bên liên quan. “Có trường hợp chỉ vì một doanh nghiệp không đăng ký mã số vùng trồng mà cả container sầu riêng bị trả về. Vậy nên, nếu không phổ cập kiến thức SPS và hỗ trợ doanh nghiệp từ gốc, chúng ta rất dễ mất thị trường một cách oan uổng”, ông Nam nói thêm.
Điểm cốt lõi trong quan điểm của TS Nam, là minh bạch SPS không chỉ dừng lại ở việc đăng tải thông tin, mà phải là minh bạch có chủ đích, có điều phối và có trách nhiệm giải thích, tiến tới tạo lập một hệ sinh thái hỗ trợ hiệu quả.
Theo ông, hệ thống SPS của nhiều thị trường, nhất là các quốc gia phát triển như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… thường xuyên cập nhật quy định mới. Nếu doanh nghiệp không kịp nắm bắt, rất dễ rơi vào tình trạng bị động. Đặc biệt, nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn chiếm phần lớn trong xuất khẩu nông sản Việt Nam, thường không đủ năng lực tự theo dõi các văn bản gốc bằng tiếng nước ngoài, hoặc tự phân tích các yêu cầu kỹ thuật.
“Chúng ta không thể kỳ vọng các doanh nghiệp nhỏ có phòng pháp chế, phòng kỹ thuật riêng để ngồi tra cứu từng dòng quy định. Đó là lý do cần một cơ quan đầu mối quốc gia vừa theo dõi, vừa phổ biến một cách rõ ràng, dễ hiểu”, ông Nam lý giải.
Văn phòng SPS Việt Nam hiện lập kế hoạch và phát triển hệ thống cảnh báo tới các địa phương, cũng như hiệp hội ngành hàng. Trước mắt, là xây dựng bản tin SPS hằng tuần và các buổi tập huấn chuyên đề theo từng thị trường. “Thông tin SPS không phải để lưu trữ, mà là để hành động. Chúng tôi muốn mỗi doanh nghiệp đều có thể tìm thấy điều liên quan trực tiếp đến mình”, ông nói.
Với mong muốn lấy doanh nghiệp nhỏ và vừa làm trung tâm trong quá trình tháo gỡ rào cản kỹ thuật, Phó giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam nhìn nhận, xuất khẩu nông sản hiện nay không chỉ là bán sản phẩm, mà là xuất khẩu cả niềm tin, uy tín và năng lực kiểm soát chất lượng. Chỉ một sai sót nhỏ từ một nhà vườn hay cơ sở đóng gói không đạt yêu cầu là có thể khiến cả chuỗi bị ảnh hưởng.
Ông dẫn chứng trường hợp bùng nổ xuất khẩu rau quả trong 2 năm vừa qua. Thành công này đến từ việc xây dựng mã số vùng trồng, kiểm soát chuỗi giá trị, và hỗ trợ kỹ thuật sát sao từ các cơ quan chức năng. “Đó là điển hình cho thấy nếu làm đúng ngay từ đầu, chúng ta có thể chiếm lĩnh thị trường và giữ vững vị trí”, ông phân tích.
Tuy nhiên, theo ông Nam, nhiều địa phương vẫn chưa chủ động rà soát thông tin hoặc tập huấn SPS một cách bài bản. Thậm chí, còn tình trạng giao trách nhiệm cho doanh nghiệp tự làm, trong khi việc này đáng lẽ phải được hỗ trợ từ cơ sở. “Muốn đi xa, phải đi cùng nhau. Không thể để một bên sản xuất, một bên đi đàm phán mở cửa, còn người ở giữa, là doanh nghiệp, thì tự xoay xở”, ông nói thẳng.
Yêu cầu với nông sản, thực phẩm xuất khẩu ngày càng được nâng cao. Ảnh: Bảo Thắng.
Điều phối quốc gia - mảnh ghép còn thiếu
Bài học lớn mà TS Ngô Xuân Nam muốn nhấn mạnh, là cần một cơ quan điều phối quốc gia về SPS, không chỉ làm công tác cảnh báo và thông báo, mà còn kết nối giữa các bộ ngành, địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp trong từng quy trình mở cửa thị trường. “Hiện nay khi đàm phán mở cửa cho một mặt hàng mới, có nơi làm rất tốt, nhưng cũng có trường hợp lúng túng, chồng chéo trách nhiệm. Điều này khiến đối tác quốc tế đặt câu hỏi: ai là người chịu trách nhiệm cuối cùng?” ông đặt vấn đề.
Ông cho rằng, nếu Việt Nam xây dựng được một cơ chế điều phối đồng bộ, từ tổng hợp thông tin, phân tích nguy cơ, đàm phán và phổ biến chính xác cho doanh nghiệp, thì không chỉ xử lý tốt hơn các sự cố SPS, mà còn chủ động hơn trong việc mở rộng thị trường và tận dụng các hiệp định thương mại tự do.
Đây là điều mà nhiều quốc gia đã thực hiện một cách xuyên suốt, chẳng hạn Trung Quốc yêu cầu mã số vùng trồng, EU yêu cầu hồ sơ HACCP, Nhật Bản theo dõi từng mã QR. Nếu không có sự điều phối, doanh nghiệp rất dễ lạc hướng trước sự phát triển đa dạng của thị trường.
“Trong RCEP hay CPTPP, nếu không hiểu và không tuân thủ SPS thì mọi ưu đãi thuế quan cũng trở nên vô nghĩa. Chúng ta từng để xảy ra nhiều chuyện cười ra nước mắt chỉ vì không biết quy định cụ thể. Đây là điều đáng tiếc, nhưng hoàn toàn có thể tránh được nếu có sự phối hợp sớm”, ông nói.
Từ góc nhìn của ông Nam, việc nâng cao năng lực SPS cho toàn ngành nông nghiệp Việt Nam không chỉ là đáp ứng thị trường trước mắt, mà là sự chuẩn bị cho một nền sản xuất xuất khẩu hiện đại, bài bản và có trách nhiệm.
“Muốn nông sản Việt Nam không bị lệ thuộc vào một vài thị trường, thì chính chúng ta phải biết ‘chìa khóa’ của từng cánh cửa là gì. SPS không phải trở ngại, mà là thước đo năng lực quản trị sản phẩm. Nếu làm tốt, đó sẽ là lợi thế cạnh tranh không ai có thể sao chép”, ông kết luận.
Không phủ nhận còn nhiều thách thức, song ông Nam tin rằng con đường SPS, nếu được đi một cách minh bạch, quyết liệt và đồng hành, sẽ là hành lang vững chắc để nông, lâm, thủy sản Việt Nam chinh phục thị trường toàn cầu một cách bền vững và có trách nhiệm.
Từ năm 2024, Văn phòng SPS Việt Nam triển khai Đề án nâng cao năng lực thực thi SPS theo Quyết định số 534/QĐ-TTg của Thủ tướng. Đề án nhằm xây dựng hệ thống cảnh báo sớm, phổ biến quy định thị trường trọng điểm, và hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp.
























