Má Lủ là một địa danh cổ trên cao nguyên đá Đồng Văn, có nghĩa là “đường ngựa”. Mảnh đất đá tai mèo này, lạ chưa, đã từng có cây cà phê hiện diện khoảng trăm năm trước.
Ít người tin rằng, cây cà phê trồng ở vùng núi đá hiểm trở, thiên nhiên cực kỳ khắc nghiệt: thiếu nước giữa mùa mưa, và cắt da cắt thịt rét vào đông lạnh, phải chăng chỉ để minh chứng, rằng, mảnh đất khắc nghiệt này, nếu có sự quyết tâm thì điều gì cũng có thể?
Nhưng, đó là câu chuyện 100% sự thật khi tôi tận mắt chứng kiến, tận mắt sờ nắn, nếm ngửi những quả cà phê đỏ mọng trên những cây cà phê khẳng khiu, cao lêu đêu, thân mảnh khảnh như một mũi khoan xuyên đá chui lên, ước chừng hơn trăm năm trước ở Má Lủ.
Đáng tin hơn nữa, có một người đàn ông đang quyết tâm ngược dòng: vừa nuôi một đàn cầy vòi mốc, vừa nhân trồng gần 1ha cà phê giống. Điểm kết nối của hai thứ cây - con tưởng như không ăn nhập với nhau này, là sẽ cho ra đời một sản phẩm trứ danh: cà phê chồn Đồng Văn!
Một minh chứng khác để tăng thêm thuyết phục: cụ ông 93 tuổi sống ở phố cổ Đồng Văn đã khiến những những người sành cà phê nhất phố cổ Hà Nội phải xuýt xoa, trầm trồ bởi một tách cà phê được cụ mang từ Đồng Văn về xuôi, dậy hương tưởng như làm nức nở cả 36 phố phường.


Lần thứ 2 tôi trở lại Má Lủ, cách nhau đúng hai tháng, cũng là khi cây cà phê khẳng khiu trước cửa nhà ông Lù A Quẩy (thôn Má Lủ, xã Đồng Văn, tỉnh Tuyên Quang) đã bắt đầu ưng ửng chín. Trái cà phê thon dài, hình trái xoan, tựa như một quả táo dại non mà loài chim ngẫu hứng “nhân giống” ra tự nhiên qua… đường tiêu hóa. Thường, những cây “chim trồng”, chất lượng quả bao giờ cũng kém hơn, hoặc khác biệt hơn so với cách gieo trồng thông thường. Nhưng, đây là cây cà phê trồng trên xứ đá, rất khác!
Từ dưới hốc đá, một thân cây to cỡ cổ tay người lớn trổ cao chừng 3 mét, chen chúc dưới tán quất hồng bì sum suê trước cổng nhà ông Quẩy. Cây hầu như mọc thẳng, tán không dày, cao lêu đêu, và những cành cà phê trổ ra cũng khẳng khiu như thân cây mẹ. Phía đầu cành, những chùm quả không bó lúc lỉu như những cây cà phê của vùng đất đỏ bazan Tây Nguyên mà lại thưa thớt hơn. Nhưng rõ ràng, quả cà phê ở Má Lủ to hơn quả cà phê thông thường, và thon dài, hình trái xoan, rất dễ nhận thấy sự khác biệt.
Lá cây cà phê Má Lủ mướt xanh, to bản, dài, mỏng hơn so với lá cây cà phê trồng ở các vùng đất khác. Đặc điểm thân, lá, quả này là dấu hiệu đặc trưng của những thực vật vùng núi đá, trên độ cao hơn 1.000 mét, dưới tầng tán của những loài cây khác nên thiếu ánh sáng, thiếu dinh dưỡng đất trồng.

Má Lủ là một thôn cổ ở đất Đồng Văn, cách thủ phủ huyện lị cũ trước khi chưa thành xã khoảng 7km. Nó vốn là một thung lũng nhỏ hẹp, được bao bọc bởi quẩn thể núi đá sừng sững. Thôn quần tụ khoảng chừng trăm nóc nhà, hầu hết là những ngôi nhà trình tường vài chục năm tuổi, như ngôi nhà cổ của gia đình ông Lù A Quẩy.
Cũng vì được bao bọc bởi núi đá nên dù ở độ cao hơn 1.000 mét nên Má Lủ có một nền khí hậu khác biệt, nóng hơn so với các thôn bản khác. Có lẽ, cùng vì điều này mà cây cà phê trụ được ở đất này.
“Khi lớn lên tôi đã thấy có cây cà phê trong nương nhà mình rồi. Chục năm trước, Má Lủ còn rất nhiều cà phê, vườn nhà ai cũng trồng, có những nhà, nương chỉ rặt cà phê. Nghe ông bà kể lại, cà phê được trồng từ thời Pháp thuộc. Viên quan Pháp cai trị đất Đồng Văn - Mèo Vạc có lẽ là người ghiền cà phê nên mới sai dân đi phu trồng để làm đồ uống cho họ chứ không hẳn vì mục đích phát triển kinh tế cho người dân vùng bị trị. Cà phê trồng khắp Đồng Văn, trồng xung quanh phố cổ, đồn Cao, Ma Lé, Má Lủ, Lũng Cú…, nhưng nhiều nhất và trụ lại được có lẽ chỉ trên Má Lủ”, ông Quẩy nói.


Đường vào nhà ông Quẩy toàn những đá và đá. Đá xếp tầng, dựng đứng thành tường rào. Những tảng đá mồ côi to như một đống rơm chồm hổm giữa vườn. Con đường vào nhà hẹp và trơn trượt, lúc nào cũng ẩm ướt và chen lấn rêu. Xung quanh nhà ông Quẩy, nếu bỏ công tìm kiếm cũng còn vài chục cây cà phê cổ thụ, tuổi đời vài ba chục năm. Xung quanh gốc, và rải rác khắp các kẽ đá, khe đá là những cây cà phê non mọc lên từ những hạt chín rơi xuống, tự nhiên mà thành cây, không ai trồng…
Sau thời Pháp bị đánh đuổi, biết bao nhiêu việc phải làm nên chẳng ai còn nhớ tới nó nữa. Dân lo trồng ngô, trồng rau màu, lo đối mặt với cái đói nên làm gì mà có thời gian uống cà phê. Thứ hai, cũng không ai thu mua quả cà phê nên bà con chặt bỏ hết. Những cây bây giờ còn sót lại là những cây tự mọc, thuần túy tự nhiên như cây cà phê dại, không được chăm sóc.
Sinh năm 1960, ông Lù A Quẩy là người đầu tiên trong thôn Má Lủ tham gia công tác chính quyền. Giai đoạn những năm 1980, ông Quẩy đi tiễu phỉ, rồi chiến tranh biên giới, rồi làm trưởng công an xã Đồng Văn... Giai đoạn cam go nhất, cả bản Má Lủ từng phải sơ tán xuống Đồng Văn, sau khi tình hình yên ắng mới lục tục trở lại bản cũ. Liền kề với Má Lủ, và đi dọc khe núi dài 5 km xuống bản người Tày Thiên Hương, dải núi liền kề đã là đất Trung Quốc.
Chuyến đi đầu tiên vào Má Lủ của tôi dịp tháng 7 trước đó có anh Ngô Quốc Kỳ, chuyên viên Phòng kinh tế xã Đồng Văn (tỉnh Tuyên Quang) đi cùng. Mùa cà phê năm ngoái, Kỳ lặn lội vào Má Lủ thu mua quả cà phê, được trên 1 tạ quả. “Em mua để bà con biết là vẫn có người mua, để từ đó bà con không chặt bỏ cây cà phê đi, biết đâu sẽ có dịp phục dựng, tái sinh cây cà phê bản địa. Bà con lỡ chặt đi hết, lúc cần tìm cây giống lại không còn”.
Sự lo xa của Kỳ rõ ràng có cơ sở. Ấy là khi anh Lý Văn Chiếm, sinh năm 1974, một giáo viên dạy học ngoài Tả Phìn cách nhà khoảng 20 km, đang triển khai dự án phục dựng lại cây cà phê Má Lủ. Sinh ra và lớn lên ở Má Lủ, mấy chục năm lăn lê hết các điểm trường vùng cao này tới điểm trường khác của huyện Đồng Văn cũ, gần đến tuổi về hưu, anh Chiếm mới quay về bản cũ. Đất nương ông cha để lại 3-4 ha, để không thì quá tiếc. Yêu nông nghiệp, thích trồng trọt, chăn nuôi nên cứ cuối tuần, thầy giáo Chiếm lại bỏ hết vẻ đạo mạo trên lớp, khoác lên người bộ quần áo bảo hộ lao động để kỳ cụi, vật lộn với 3 ha đất nông nghiệp bỏ hoang bấy lâu.


Việc đầu tiên là anh dọn dẹp, cải tạo mặt bằng: đá to, đá nhỏ được nhặt lại gọn gàng một chỗ, hay xếp thành bờ rào đá để giữ đất, giữ nước. Tiếp đó, cải tạo đất vườn, đào ao trữ nước trồng cây... Quanh nhà, anh đặt 200 thùng ong - giống ong mật bản địa để lấy mật theo mùa. Và quan trọng nhất, anh đã thu vén trồng được gần 1 héc-ta cà phê Má Lủ - thứ lạ lẫm mà không chỉ riêng tôi, rất nhiều người bản địa sống trên cao nguyên đá này - không nhiều người biết!
“Tôi đi tìm cây cà phê mọc tự nhiên ở những kẽ rào, trong vườn, khe đá… Mình không để ý chứ quanh bản còn rất nhiều. Cây mọc tự nhiên nên rất khỏe, cứng cáp, đã được tự nhiên chọn lọc. Nhổ cây về, vì có muốn đào gốc, đánh bầu cũng không được bởi chúng mọc chen trong kẽ đá, tôi học cách giâm ủ, dưỡng cây cho ra rễ, sau đó đào hố đất, ngâm ủ phân hữu cơ lót dưới tầng dưới để nhử rễ, nuôi rễ. Đến nay, chúng lên xanh tốt, rất khỏe, nhiều cây đã bói quả”, anh Chiếm hồ hởi.
Dẫn tôi đi thăm vườn cà phê 3 năm tuổi, ông thầy giáo vùng cao không giấu những kỳ vọng: Đồng Văn đã là địa danh du lịch quốc tế, mỗi năm đón gần chục triệu du khách tới đây. Thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, nhiều đặc sản bản địa nhưng không mấy ai được thưởng thức ly cà phê được trồng trên đất Đồng Văn, được nuôi dưỡng trên núi đá và khí hậu khắc nghiệt của mảnh đất này. Nó sẽ là một dư vị, hương vị riêng đặc trưng, là một sản vật quý của núi rừng.
Kiên trì. Tỉ mỉ. Suốt mấy năm qua, anh Chiếm đã gây dựng được gần 1ha cà phê xung quanh vườn. Những khóm cà phê cao ngang người, có cây cao cả mét đang ở tuổi sung sức. Cứ đà này, chẳng mấy chốc Đồng Văn sẽ có sản lượng đều đặn theo mùa. Sản phẩm cà phê nhân Má Lủ sẽ sớm xuất hiện trên menu của quán cà phê phố cổ Đồng Văn!


“Cũng còn nhiều cái lo lắng nhưng hiện tại vườn cà phê tôi trồng đang phát triển rất tốt, rất khỏe. Cả thế kỷ thích nghi trên vùng đất này, giờ, chúng đã trở thành cây bản địa. Thêm nữa, khoa học kỹ thuật ngày nay phát triển giúp tôi tự tin hơn về quy trình chăm sóc, điều trị bệnh cũng như sản xuất, chế biến”, anh Chiếm tự tin nói trong lúc chỉ tôi xem một chùm quả cà phê vừa mới bói, quả nào quả nấy mẩy căng, lớp vỏ quả xanh sậm, khá dày ôm phần nhân bên trong, mà có lẽ, đó là những nhân hạt cường tráng.


Ngôi nhà của cụ Trần Văn Bọc (SN 1933) nằm trên con phố trung tâm, sôi động, đẹp đẽ nhất phố cổ Đồng Văn. Thế nhưng, giữa khu phố du lịch sầm uất, biển hiệu, đèn điện rực rỡ, tấp nập du khách ấy, căn phòng cụ Bọc sống lùi sâu phía trong, yên tĩnh, phẳng lặng, cách xa những ồn ào. Ông cụ 93 tuổi vẫn minh mẫn, dù bây giờ nói chuyện phải đeo máy trợ thính. Nhắc đến cà phê Má Lủ, cụ Bọc bỗng trở nên linh hoạt, ánh mắt tinh anh, lấp lánh…
Bố mẹ cụ Bọc quê gốc Nam Định, dắt díu nhau lên Đồng Văn từ rất sớm mở hàng bán tạp hóa, trong đó có bán cả cà phê. Thuở ấy, Đồng Văn còn thưa người, nhà cửa hoang liêu, rừng còn xanh um ra tận phố thị. Cậu bé Bọc phụ giúp bố mẹ, rồi học cách rang xay, pha chế cà phê, trở thành chuyên gia pha chế nổi tiếng nhất đất Đồng Văn lúc nào không hay.


Thời đó chưa có máy rang xay cà phê hiện đại như giờ. Cà phê hạt thu mua về sơ chế, rang trên bếp củi, sau đó nghiền thủ công, xay bằng cối đá, xay kỳ công cho tới khi thành bột mịn. Chưa có phên pha cà phê kim loại, bột cà phê cho vào túi vải, lấy nước ngọt từ trong khe núi đun sôi rồi pha trên ấm gốm. Cà phê rang củi có mùi thơm của khói bếp, đường sữa chưa nhiều như bây giờ nhưng vẫn có, bởi người Pháp mang sang phục vụ nhu cầu của họ. Nhân cà phê Mã Lủ rất to, thơm, ngậy, nhiều dầu, có màu sẫm như màu ca cao. Bột cà phê Má Lủ xay ra rất mịn, tơi, xốp, nước rất sánh, quện. Một giọt cà phê vô ý để nhểu ra, cảm giác nó lăn tròn, đặc sánh như thế giọt mật ong rừng nguyên chất, không có tạp chất…
Mươi năm trước cây cà phê ở Má Lủ còn rất nhiều. Đi lên đồn Cao - lô cốt kiên cố do người Pháp dựng lên án ngữ vị trí trung tâm phố cổ nhằm kiểm soát toàn bộ vùng cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc vẫn gặp những cây cà phê còn sót lại. Cà phê trồng trên cao nguyên đá năng suất không cao nhưng rất thơm ngon và có vị riêng. Pha một ly cà phê trong nhà, cách xa trăm mét đã ngửi thấy mùi thơm.
“Tôi uống cà phê trồng trên đất Đồng Văn quen tới mức không uống được cà phê nào khác, giống như bị ghiền, bị nghiện. Có một lần xuống dưới Hà Nội, biết thói quen ghiền cà phê của ông nên cháu tôi dẫn tới một quán cà phê nổi tiếng nhất ở phố cổ để ông thưởng thức. Tôi lúc nào cũng mang theo một túi cà phê đã rang sẵn, đưa cho anh chủ quán nhờ xay, pha giúp, rồi nhân đó cũng mời anh ta một ly. Cốc cà phê mang lên, hương thơm khác biệt ai cũng phải trầm trồ. Anh chủ quán là người kỹ tính cũng không thế giấu được sự ngạc nhiên, hỏi tôi mãi về nguồn gốc thứ cà phê đặc biệt này”, cụ Bọc vui chuyện.
Theo cụ Bọc, cà phê Má Lủ rất thơm, ngon, nó là thứ cà phê hảo hạng, là cây cà phê thuần túy hữu cơ vì không bao giờ biết đến hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, sinh trưởng tự nhiên, được nuôi dưỡng bằng đất - nước vùng cao khắc nghiệt. Nó có thể ví như là dạng cà phê rừng - để phân biệt với những vùng cà phê chuyên canh trên những vựa cà phê lớn của vùng trung du, Tây Nguyên tuổi đời mới chỉ ngót nửa thế kỷ.
Cũng như, khi so sánh những thức trà được chế biến từ những rừng chè cổ thụ, mọc tự nhiên người ta vẫn hay gọi là chè rừng; những quần thể chè shan cổ thụ tuổi đời vài ba trăm năm, sản phẩm, hương vị của nó rõ ràng khác hoàn toàn với chè đồi, chè trung du… trồng phổ biến, đại trà, năng suất cao, mau thu hoạch mà rõ ràng hương vị công nghiệp, bình dân.


Chậm rãi, cụ Bọc đi về phía chiếc tủ gỗ lấy ra chiếc hộp nhựa quen thuộc mấy chục năm qua đựng nhân cà phê Má Lủ. Trong hộp, còn lại chừng vài vốc cà phê nhân đã rang chín, chưa nghiền. Năm nay, cụ Bọc tuổi cao, huyết áp thất thường nên hạn chế dùng cà phê nên mua ít, trữ ít. Mà mùa thu hoạch cà phê Má Lủ thì chưa tới…
Nắp chiếc hộp được mở, mùi hương cà phê đặc trưng cùng với mùi thơm ngậy dậy lên toả cả căn phòng. Nếu xay thành bột, rồi đến lúc thành một ly cà phê thành phẩm, hương thơm của nó còn quyến rũ tới mức nào?
Cụ Bọc vốc một vốc nhân ra tay, xòe cho tôi nhìn ngắm. Những nhân hạt cà phê nâu sẫm, bóng loáng như tráng dầu, và khá quện. Cụ phân trần như thể giãi bày, rằng chiếc máy pha cà phê của cụ mới hỏng, chưa sửa được, nếu không, nhất định cụ sẽ cho tôi nếm thử một tách cà phê Má Lủ!


Quay trở lại với Lý Văn Chiếm, sang đến chén rượu thứ 3 chắt từ bình rượu ngâm hoa cây đu đủ đực trồng trên mảnh nương dốc đứng trước cửa, anh bắt đầu cắt nghĩa về mảnh đất đang khởi nghiệp với một ý tưởng mà không ít người sẽ nghĩ là “điên rồ” hay bất khả thi.
Đầu tháng 9 vừa đây, anh vượt gần 600 km về Thường Tín (Hà Nội) mua 4 cặp cầy vòi mốc đã trưởng thành sắp đến tuổi sinh sản, tổng số 8 con để về nuôi thí điểm, mỗi con 25 triệu đồng, tổng tiền 200 triệu. Đi về trong ngày, hai người thay nhau lái xe: 2h chiều xuất phát từ Đồng Văn xuôi Hà Nội, tờ mờ sáng có mặt. Không kịp ngủ, anh đến thẳng trại nuôi cầy vòi mốc đã liên hệ trước. Chọn xong lại quẩy quả ngược Đồng Văn, không kịp ghé thăm thằng con đang học năm 2 Đại học Thủy lợi.
“Người ta cam kết, mỗi lứa, con cầy mẹ sẽ đẻ 4 con con. Nếu không đủ 4, họ sẽ đổi trả cho con mẹ khác. Nếu mua cầy giống, một cặp 25 triệu đồng. Tôi tính toán mãi, phương án an toàn nhất là mua cầy bố mẹ đã được chọn lọc, có sức đề kháng, đến tuổi sinh nở, nó sẽ đẻ sớm rồi mình nhân đàn, vừa kinh tế mà lại chắc ăn. 4 con mẹ, sau 1 lứa sẽ có 16 con non; một năm cầy đẻ từ 2-3 lứa, như vậy sẽ nhanh lấp đầy 20 chuồng nuôi đã chuẩn bị sẵn”. Vừa nói, anh Chiếm vừa hướng mắt nhìn ra dãy chuồng nuôi xây gạch kiên cố, cửa rào lưới thép mắt dầy rất an toàn, như thể rằng: đấy, nói có sách, mách có chứng, không phải nói chơi!

Trong chuồng, đàn cầy vòi mốc mà anh mới bắt về gần một tháng đã dần quen. Cầy, hay chồn thương phẩm, trọng lượng tối đa đạt trên 6 kg, nếu bán thịt, mức giá đang giao động trên 3 triệu đồng/kg sẽ cho khoảng 20 triệu đồng/con. Nhiều cơ sở đang đi theo hướng này rồi, nếu cạnh tranh thì không ăn thua. Anh Chiếm có chiến lược lớn hơn nhiều, không “xôi thịt” dừng ở nuôi cầy/chồn thương phẩm.
Trước khi vào bữa cơm trưa ngay tại khu chuồng nuôi cầy vòi mốc, anh Chiếm đã dẫn tôi đi thị sát một vòng quanh nhà, tới chỗ nào cũng dừng lại giải thích tỉ mỉ, chi tiết.
Anh xây một dãy chuồng vòng xung quanh ngôi nhà mới dựng rộng cỡ 50-60 m2 sạch sẽ kiên cố hơn cả nhà cho một gia đình ở, mỗi chuồng rộng 2-3 m2, nền chuồng khô ráo và dốc, có “gác xép” cho chồn ngủ, lại gác một khúc cây cho chúng leo trèo vận động. Mỗi đáy chuồng bắt một ống nhựa để gom nước thải mỗi ngày. Một đường ống thoát nước bằng nhựa PC vanh 60 cm chạy quanh khu chuồng sẽ thu toàn bộ nước thải từ hơn 20 ô chuồng này, gom về một bể chứa lớn, bên trên có lưới hứng…
“Đây mới là cái quan trọng nhất. Hệ thống ống dẫn nước thải này là để hứng phân bọn cầy nó thải ra. Đây là điều tôi ấp ủ nhất”, anh Chiếm giải thích.
Và cuối cùng, điều mà anh muốn nói với tôi đó là một câu chuyện cực kỳ nghiêm túc: cho cầy ăn quả cà phê chín, sau đó sẽ đợi chúng tiêu hóa hết lớp vỏ quả, chỉ còn lại hạt cà phê không phân hủy được mà lấy về làm cà phê chồn, chỉ có điều ở đây là cầy vòi mốc - họ hàng nhà chồn. Một quy trình rất thủ công nhưng cũng rất công phu, nhiều người sẽ bịt mũi, lắc đầu tưởng tượng rằng “mất vệ sinh”, “thiếu thẩm mĩ”… Nhưng, đó mới là đặc sản độc nhất vô nhị.
Lịch sử ngành đồ uống đã có nhưng câu chuyện tương tự: thứ trà trứ danh gọi tên “trảm mã trà” nức tiếng ngàn năm của giới phong lưu quý tộc bên Tàu: người ta tìm con ngựa hoang đi lên những đỉnh núi cao mây phủ mà loài người không lên được, đợi chúng ăn những búp trà nguyên sinh của rừng trà cổ thụ, bắt con ngựa đó mà giết thịt chỉ để lấy mỗi cái dạ dày ngựa đang trữ toàn những lá chè chưa kịp tiêu hóa, rồi tinh chế thành thứ trà hảo hạng. Trà trảm mã có nguồn gốc như vậy. Hay như lấy dạ dày nhím hoang chuyên ăn lá thuốc theo mùa để về trị bệnh đau dạ dày.
“Một ha cà phê Má Lủ tôi đang gây dựng, chăm bón, đã bói quả sẽ là nguồn cung cấp thức ăn cho đàn cầy này. Chuồng trại đã hoàn thiện tinh tươm; khu nuôi gần như bán hoang dã bởi giữa bạt ngàn núi đã, không khí trong lành, rừng bủa vây xung quanh. Dẫu nuôi nhốt nhưng chế độ ăn uống hoàn toàn thức ăn tự nhiên, không có một tí nào là thức ăn công nghiệp”.
Thầy giáo Chiếm say mê như thể đang đứng lớp giảng bài cho lũ trẻ vùng cao, tay thoăn thoắt bóc vỏ chuối chín vàng, rồi lấy dao xắt ra thành từng miếng cho vào khay, chuẩn bị bữa ăn trưa cho đàn cầy vòi vừa “nhập hộ khẩu”.


“Phải xắt thành miếng để con nào cũng có phần. Nếu để nguyên quả, gặp con tham ăn sẽ tranh hết phần của con khác, như vậy sẽ có con khỏe con yếu”, anh Chiếm nói với vợ - chị Nguyễn Thị Ngoãn, cũng là một cô giáo điểm trường Thài Phìn Tủng. Chị Ngoãn là cô giáo dưới xuôi, quê Nam Định lên Hà Giang ngót 30 năm trước, gặp anh Chiếm rồi nên duyên, ở lại Đồng Văn. Bây giờ, chị Ngoãn lại sát cánh cùng chồng, cứ cuối tuần lại ủn ỉn bên đàn cầy vòi mốc vừa mới lấy về - một trong những “đầu vào” tham gia quy trình của sản phẩm cà phê chồn trứ danh mà anh Chiếm đang ấp ủ sẽ thành hình trong tương lai.
Theo quan điểm của anh Lý Văn Chiếm, cà phê chồn mà anh đang ấp ủ gây dựng không cần nhiều về số lượng, sản lượng, nhưng cái quan trọng nhất đó phải là thứ cà phê trứ danh, không chỉ là truyền thuyết, là thứ đặc sản quý hiếm nhất, chỉ có ở vùng cao Đồng Văn, và chỉ có ở Má Lủ!
Bên dưới dốc núi, ngay chân chuồng nuôi cầy vòi, tiếng đàn ong mật vo ve đập cánh mải miết không ngừng. Mỗi một thùng ong, anh Chiếm đều ý tứ đặt dưới một gốc cây cà phê Mã Lủ 3 năm tuổi: tán cà phê che mát cho thùng ong, và đàn ong sẽ làm nhiệm vụ bảo vệ cây cà phê khỏi những côn trùng gây hại.
Vẫn câu chuyện địa danh. Quả là diệu vợi khi lên miền đá này, rất nhiều địa danh bắt đầu/hoặc liên quan tới từ “mã - ngựa”. Người Mông khi nói sang tiếng Kinh, thanh sắc thường bị mất, nên “mã” hay lái thành “má”: Má Lủ (đường ngựa); Thẩm Mã - con dốc bất khuất mà say đắm nhất Đồng Văn, bắt đầu từ Phố Cáo rồi quanh co mãi mới chạm đất Sủng Là, có nghĩa là “thử sức ngựa”; rồi Mã Pí Lèng - sống mũi con ngựa; Ma (hay Mã) Lé…


Nếu từ tỉnh lị Hà Giang cũ ngược lên cực Bắc, qua Mèo Vạc rồi lại xuôi về theo đường Yên Minh, chúng ta đã ôm trọn vẹn Cao nguyên bằng một cung đường vòng thúng. Má Lủ nằm ở chính giữa cái tang trống này, trước khi đàn ngựa thồ leo hết dốc Sài Phìn Tủng để đến đỉnh Mã Pí Lèng, cũng là lúc chúng chùng chân, mỏi vó, chỉ thấy sống mũi con ngựa phì phì hắt ra những hơi thở nóng rực sau hành trình mệt mỏi. Má Lủ - đường ngựa - là cuộc đường trường thử thách loài ngựa chiến sau những cửa ải cam go.
Không hiểu sao, tôi có cảm giác đầy liên quan giữa cây cà phê bản địa - đàn cầy vòi mốc - anh Lý Văn Chiếm và địa danh này. Người thầy giáo vùng cao dám nghĩ, dám làm đang mở một con đường mới ở vùng đất mang tên “đường ngựa” - Má Lủ!