Với người Mông, cây khèn theo bước chân họ từ khi lọt lòng đến lúc về với tổ tiên. Khèn là sợi dây kết nối giữa thế giới hiện hữu với cõi vô hình, dẫn dắt hồn người sống và người khuất, từ cõi đất lên cõi trời, từ sinh đến tử. Đàn ông Mông, người nào cũng phải biết thổi khèn, múa khèn, bởi tiếng khèn là thước đo phẩm chất, tài năng của họ trước cộng đồng.
Có một cộng đồng người Mông ngày nay đang lưu giữ kỹ nghệ làm khèn và biến những kỹ nghệ ấy thành một nghề truyền thống, để vừa bảo tồn bản sắc văn hóa. Năm 2014, thôn Tả Cồ Ván (xã Hố Quáng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang cũ, nay là xã Lũng Phìn, tỉnh Tuyên Quang) chính thức được công nhận là Làng nghề truyền thống chế tác khèn Mông, mở ra hướng đi mới cho bà con.

Giữa những sườn đá tai mèo xám lạnh và lớp mây trắng lững lờ ngang lưng trời, tiếng khèn Mông vẫn văng vẳng vọng khắp núi rừng cao nguyên đá, lúc dập dìu khoan thai như suối chảy, khi ào ạt sôi nổi, réo rắt rồi lại trầm sâu như tiếng núi vọng về. Trong âm thanh ấy là linh hồn của người Mông, những con người kiên gan “sống trên đá, dựng bản dưới trời cao”, nỗ lực gìn giữ bản sắc của mình qua bao thế hệ.
Tiếng khèn thấm sâu vào máu thịt người Mông, thân quen như bát mèn mén thuở lọt lòng. Họ quan niệm, tiếng khèn là phần hồn của người Mông, giữ tiếng khèn là giữ bản sắc dân tộc mình. Cây khèn theo bước chân họ từ khi lọt lòng đến lúc về với tổ tiên. Quan niệm vũ trụ 3 tầng của đồng bào gửi gắm vào tiếng khèn những thông điệp tâm linh. Khèn là sợi dây kết nối giữa thế giới hiện hữu với cõi vô hình, dẫn dắt hồn người sống và người khuất từ cõi đất lên cõi trời, từ sinh đến tử.



Đàn ông Mông từ nhỏ đã phải biết thổi khèn, múa khèn; tiếng khèn trở thành thước đo phẩm chất, tài năng của họ trước cộng đồng. Ngày xưa, người con trai Mông từ 10 tuổi đã tự tay chế tác cho mình một cây khèn để làm bạn đồng hành lên nương, xuống chợ. Nhà nào có chiếc khèn treo ở vách, người ta liền biết đó là gia đình có đàn ông mạnh mẽ, tài hoa, biết giữ hồn truyền thống.
Người Mông có nhiều nhạc cụ truyền thống gồm đàn môi, khèn lá, sáo Mông… nhưng khèn Mông vẫn là nhạc cụ tiêu biểu, gắn bó nhất với họ, giữ vai trò chính trong những phong tục quan trọng, đặc biệt là lễ tang của người Mông.
Ngày thường, tiếng khèn thể hiện tâm tư vui buồn, mời gọi bạn xuống chợ, đi chơi ngày xuân; khi vui thì dặt dìu, rộn rã, lúc buồn lại sâu lắng, ai oán. Trong đám ma, khèn dẫn lối chỉ đường cho hương hồn người đã khuất trở về với tổ tiên, gửi gắm lời tiễn biệt và nỗi niềm của người ở lại.
Trên hành trình ngược núi tìm hiểu nghề chế tác khèn Mông, tôi nghe nhiều câu chuyện về nét văn hóa độc đáo này. Tả Cồ Ván là ngôi làng heo hút ẩn mình giữa những dãy núi đá, nơi cư ngụ của 146 hộ dân. Từ bao đời, Tả Cồ Ván nổi tiếng với nghề làm khèn, đến nay đã có trên 40 năm giữ lửa nghề.
Bí thư Chi bộ thôn Tả Cồ Ván, ông Mua Mí Lử, tự hào cho biết: Thôn hiện có 24 gia đình còn làm khèn. Nhờ giao thông thuận lợi và du lịch phát triển, tiếng khèn Mông nơi đây đã vang xa, được nhiều người biết đến. Năm 2014, thôn Tả Cồ Ván chính thức được công nhận là Làng nghề truyền thống chế tác khèn Mông, mở ra hướng đi mới cho bà con. Từ đó, nhiều chính sách hỗ trợ được triển khai, tỉnh, xã cung cấp dụng cụ, cho vay vốn ưu đãi, mở lớp tập huấn kỹ thuật và quảng bá sản phẩm. Nhờ giữ nghề làm khèn gắn với phát triển du lịch cộng đồng, không ít gia đình nơi “miền đá tai mèo” này đã thoát nghèo, đời sống khởi sắc trông thấy.


Đầu thôn, tôi gặp Lào Mí Tủa (sinh năm 1987) - gã trai bản đang lững thững khoác ba lô cuốc bộ, trước ngực đeo cây khèn. Nghe tôi ngỏ ý muốn tìm hiểu về nghề làm khèn, gương mặt rám nắng nở nụ cười tươi, Tủa nhanh nhẹn dẫn tôi vào bản.
Con đường bê tông nhỏ bám theo sườn núi đá, 2 xe đi ngược chiều cũng khó tránh nhau. Gió lùa hun hút. Xa xa, khói bếp từ những mái nhà trình tường quện vào mây trắng, bay ngang lưng trời.
Càng gần đến Tả Cồ Ván, tiếng khèn Mông đã văng vẳng trong gió núi thôi thúc bước chân. Đúng như lời người ta vẫn nói: “Tiếng khèn đi xuống chợ, núi nghiêng mình đi theo… Tiếng khèn như cơn gió, vượt qua thung qua đèo”.


Chủ nhân của ngôi nhà đất trình tường, lớp mái ngói âm dương đã ám khói thời gian là ông Mua Sính Pó. Năm nay đã ngoài 70 tuổi, nhưng cũng như ngôi nhà dù đã cổ kính nhưng vẫn đẹp bền bỉ, ông Pó dáng người vẫn đầy rắn rỏi. Im lặng, ông Pó ngồi bên bếp lửa, dưới ánh sáng của bóng đèn điện treo lơ lửng trên đầu, tỉ mẩn với từng thanh trúc, bầu khèn. Đôi tay ông thoăn thoắt nạo gọt, đục đẽo một khúc gỗ thông dầu, đó chính là bầu khèn đang sắp sửa hoàn thiện. Xung quanh ông, cơ man nào là dụng cụ, những con dao nhỏ, cái đục, mấy ống trúc già đã vót thẳng hàng…
Thấy chúng tôi đến, ông Pó ngẩng cười đầy hiếu khách. Ông nói tiếng Mông, Tủa phiên dịch lại cho tôi từng lời. Hóa ra ông Mua Sính Pó bắt đầu học làm khèn từ năm 18 tuổi. Trước đó, ông đã sớm thành thạo thổi khèn, múa khèn.
Khi được làm lễ trưởng thành (lễ “đổi tên” theo phong tục của người Mông) năm 21 tuổi, ông Pó cưới vợ. Bà Lý Thị Giấy, vợ ông đem lòng thương ông chính nhờ tiếng khèn say đắm của chàng trai Pó năm ấy. Nhà bà Giấy ở tận thôn Phóng Tủng, cách hơn 3 cây số đường núi đá, vậy mà nghe tiếng khèn hay, bà đã vượt núi về làm dâu Tả Cồ Ván.


Cuộc đời người nghệ nhân người Mông này gần như gắn chặt với góc bếp, với những cây trúc, thanh gỗ vô tri, để thổi vào đó linh hồn dân tộc. Ông Pó bảo: “Khèn đúng chất là phải trầm như đá, réo rắt như gió, ngân như núi vọng. Làm không khéo, khèn chỉ còn là đồ treo tường cho đẹp thôi”.
Ngày còn trai trẻ, ông Mua Sính Pó có thể hoàn thiện một cây khèn sau hai ngày, còn giờ trung bình phải mất ba ngày hoặc hơn mới xong một chiếc. Khèn của ông Pó làm chủ yếu phục vụ nhu cầu văn nghệ trong bản và… thổi đám ma. Trước kia một cái khèn chỉ độ vài chục đồng (thời bao cấp), sau lên vài trăm nghìn, còn giờ mỗi cây khèn bán được giá thấp nhất là 2 triệu đồng.
Có thời, trai trẻ bỏ bản xuống phố, tiếng khèn vắng dần, nghề đứng bên bờ tắt lửa. Nhưng rồi những người như ông Pó vẫn ngồi bên bếp, giữ nghề như giữ hơi thở.
Giờ đây, ngọn lửa nghề ở Tả Cồ Ván đã được truyền sang thế hệ trung niên, tiêu biểu có ông Giàng Nọ Giàng (sinh năm 1976). Nhà Nọ Giàng ngay sát nhà văn hóa thôn, vừa có thêm bốn thanh niên trẻ xin theo học nghề làm khèn. Ý thức được trách nhiệm giữ gìn văn hóa của chính dân tộc, ông Giàng nhận dạy nghề cho bất cứ ai muốn học, hoàn toàn miễn phí.
Theo ông, người mới học nghề nếu khéo tay, chăm chỉ thì khoảng 2 tháng có thể làm được khèn, còn ai chậm hơn thì nửa năm mới nên hình. Học trò của ông Giàng đủ các lứa tuổi, có cả mấy cậu bé 13-14 tuổi.


Ông Giàng ngồi trước cửa nhà, cầm lên một tấm lá đồng mỏng tang, giơ ra ánh sáng quan sát rồi giải thích, lá đồng được cắt khe chính giữa, gắn vào ống trúc như linh hồn của khèn, âm thanh hay, dở phần lớn do nó quyết định. Gỗ làm thân khèn phải chọn loại thông dầu dẻo dai, xẻ khúc phơi khô kỹ để tránh nứt nẻ. Khi đục rỗng bầu khèn, phải canh độ sâu, độ rộng thật chuẩn để lắp khớp với các ống trúc. 6 ống khèn làm từ trúc già, chẻ ra rồi vạt mỏng một đầu để gắn lam đồng.
“Khèn tốt hay dở nằm ở khâu chỉnh âm lá đồng. Người làm khèn phải có đôi tai thẩm âm tinh tế, cộng thêm bàn tay khéo léo nữa mới ‘dìu’ được tiếng khèn đúng chất”, ông Giàng cho biết.
Khi cây khèn mới được ráp xong, ông Giàng nâng lên áp môi thổi một làn hơi trầm, rồi múa một vài nhịp ngay trước cửa nhà. Tiếng khèn vang lên trầm bổng, dặt dìu khiến lòng người nghe không khỏi rạo rực. Ánh nắng trưa, hắt bóng dáng người đàn ông Mông nhỏ nhắn đang ôm cây khèn nhảy những bước lảo đảo mà nhịp nhàng.


Quả thật, nhờ gắn giữ nghề làm khèn với phát triển kinh tế, nhiều hộ gia đình ở Tả Cồ Ván đã thoát nghèo. Như khèn của ông Giàng có giá bán thường từ 3 triệu đồng trở lên.
Bí thư Chi bộ Mua Mí Lử cho hay: Hiện thôn có 24 hộ thường xuyên làm khèn, mỗi người trung bình mỗi tháng mỗi người làm được khoảng 10 chiếc, thu về cỡ 20-30 triệu đồng, con số mà trước đây có mơ người dân cũng không nghĩ tới. Khèn làm tới đâu, có người đặt mua tới đó, thị trường không chỉ ở Tuyên Quang mà còn sang tận Cao Bằng, Lào Cai, thậm chí “xuất ngoại” sang cộng đồng người Mông ở các nước trên thế giới.


Câu chuyện về khèn Mông không chỉ gói gọn trong thôn Tả Cồ Ván, mà còn lan tỏa ra khắp vùng cao nguyên đá. Đặc biệt, có những người trẻ đã mạnh dạn mang cây khèn Mông “xuất ngoại”, biến di sản văn hóa thành sản phẩm được ưa chuộng trên thị trường quốc tế.
Chúng tôi nghe giới thiệu về một chàng trai như thế ở thôn Lao Xa (xã Sủng Là cũ, nay là xã Sà Phìn), cũng tên là Mua Mí Lử, 30 tuổi, thuộc thế hệ 9x, cháu đích tôn của nghệ nhân chạm bạc lừng danh Mua Sè Sính (gia đình 7 đời làm nghề chạm bạc truyền thống ở Lao Xa). Điều thú vị là giữa đại gia đình họ Mua chuyên nghề chạm bạc, Mí Lử là cháu đích tôn, lại đi theo một ngã rẽ riêng, đam mê chế tác khèn Mông.
Tôi ghé thăm ngôi nhà trình tường của ông Mua Sè Sính ở bản Lao Xa vào một ngày đầu thu, nắng vàng như rót mật. Trong sân nhà rộn ràng tiếng búa gò bạc của con cháu ông Sính, thế nhưng ở một góc hiên lại vang lên nhịp đục gỗ quen thuộc. Mua Mí Lử đang khoét những lỗ nhỏ trên bầu khèn gỗ thông dầu vừa đục xong. Anh cười bảo: “Ở đây vui nên tôi mang đồ nghề sang làm cùng các chú, các em cho có không khí. Cả nhà làm bạc hết rồi, mình tôi làm khèn cho khác lạ!”.
Từ nhỏ Lử cũng học làm bạc như các em trong dòng họ, nhưng lớn lên anh lại say mê âm thanh của khèn Mông, thứ âm thanh đã nuôi dưỡng tuổi thơ anh qua những lần theo bố đi thổi khèn đám ma trong bản. Bố của Lử, ông Mua Nỏ Sá, là một người thổi khèn rất giỏi ở Lao Xa. Nhà có sẵn cây khèn của bố, Lử lén tháo ra xem rồi tự mày mò tập làm.
Mí Lử tâm sự: “Hai năm đầu tôi làm hỏng không biết bao nhiêu cái khèn rồi mới quen tay”. Công đoạn khoét lỗ bầu khèn để lắp ống trúc là khó nhất, rất dễ bị hỏng. Đến năm 2019 thì Lử làm hoàn chỉnh được chiếc khèn đầu tiên kêu đúng điệu. Từ đó đến nay, vợ chồng anh gắn bó với nghề làm khèn như một cơ duyên.
Mua Mí Lử tuổi còn rất trẻ nhưng đã trở thành một “tay khèn” có tiếng. Nhìn cách anh kiểm tra từng mối nối, gõ nhẹ lên ống trúc, lá đồng để lắng âm, mới thấy rõ sự sành sỏi của người thợ khèn thế hệ mới.
Điều đáng nể là toàn bộ sản phẩm của anh đều đã có người đặt mua trước, thậm chí đặt kín lịch vài tháng. Đầu ra của khèn Mông bây giờ không chỉ là chợ phiên vùng cao hay khách trong vùng nữa, mà vươn tới cả những cộng đồng người Mông ở nước ngoài. Lử bảo, anh thường xuyên gửi khèn sang Mỹ, sang Trung Quốc theo đơn đặt hàng. Nếu bán trong nước, mỗi cây khèn của anh có giá khoảng 3-4,5 triệu đồng; bán sang Trung Quốc được giá 6-8 triệu; còn gửi sang Mỹ thì trên 10 triệu đồng/chiếc.


Quả thật, so với thế hệ ông Pó, ông Giàng ở Tả Cồ Ván thì lớp trẻ như Mí Lử đã biết cách nâng tầm giá trị cho cây khèn truyền thống, biến nó thành “hàng xuất khẩu” đem lại thu nhập đáng kể.
Ông Mua Nỏ Sá, bố của Lử nói trêu bảo: “Người làm khèn ở đây nhiều lắm, ai cần thì cắp một con lợn xuống chợ là đổi được cái khèn. Nhưng những người biết làm khèn ấy, cả tuần làm được một chiếc, bán cái khèn, uống rượu thắng cố xong chỉ mua được cân thịt mỡ mang về cho vợ con. Chẳng mấy ai làm khèn mà nhiều tiền như Mí Lử”.
Đương nhiên, để làm ra cây khèn tốt, Mua Mí Lử cũng chật vật với bài toán nguyên liệu. Anh cho hay, mấy năm nay gỗ thông dầu và trúc ở địa phương khan hiếm dần, anh phải lặn lội sang tỉnh khác mua. Ban đầu chưa có điều kiện, mỗi lần anh đi mua trúc ở tận Cao Bằng phải thuê xe rất tốn kém. Giờ tích lũy khá hơn, anh đã sắm được xe tải nhỏ để tự đi lấy nguyên liệu cho chủ động.
Mua Mí Lử nhẩm tính: “Ngày trước, làm một cây khèn hết cỡ 300 nghìn tiền nguyên liệu. Còn giờ nguyên liệu khó, mỗi khèn phải tốn gấp đôi, tầm 600 nghìn. Nhưng bù lại mình bán được giá hơn nhiều”.


Trong định hướng phát triển du lịch bản làng gắn với văn hóa bản địa của Tuyên Quang, văn hóa Mông và cây khèn được xem như “đặc sản” để hút khách. Tiếng khèn giờ đây đã trở thành một điểm nhấn đặc sắc tại các lễ hội truyền thống của người Mông, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Nhiều tour du lịch trải nghiệm đưa khách về bản Mông để tự tay học làm khèn, thưởng thức những màn thổi khèn, múa khèn độc đáo. Tiếng khèn đã trở thành nhịp cầu nối khách phương xa với văn hóa Mông, tạo nên sức hút riêng có cho du lịch vùng cao.
Theo Đề án 09-ĐA/TU tỉnh Hà Giang (cũ) năm 2017 về bảo tồn văn hóa Mông, nghề chế tác và trình diễn khèn Mông sẽ được bảo tồn, phát huy đến năm 2030. Từ năm 2024, xã Hố Quáng Phìn (cũ) - nay là xã Lũng Phìn đã triển khai Đề án “Nâng cao chất lượng làng nghề khèn Mông”, chú trọng truyền dạy kỹ thuật làm khèn, quảng bá sản phẩm và gắn kết làng nghề với du lịch cộng đồng. Những chính sách kịp thời này đang tiếp thêm động lực để tiếng khèn Mông tiếp tục vươn xa, ngân vang mãi giữa bạt ngàn núi rừng.