Đối thoại với Trần Đăng Khoa

Nhà thơ Trần Đăng Khoa vốn chẳng xa lạ gì với làng báo. Ông viết thơ từ nhỏ được mang danh “thần đồng”, đến khi trưởng thành, viết báo, từng có những bài báo khiến người ta phải biết đến một chân dung nhà báo Trần Đăng Khoa xuất sắc chẳng hề kém cạnh gì các nhà báo chuyên nghiệp.

Làm việc nhiều năm ở Văn nghệ quân đội, một trong những tờ tạp chí lừng lẫy trong làng báo nước nhà những năm chiến tranh, ông thật sự là một nhà báo mang thẻ. Rồi nhiều năm về công tác ở tờ báo nói là Đài tiếng nói Việt Nam, rồi làm Tổng Biên tập Tạp chí Nhà văn và Cuộc sống, vừa viết báo vừa quản lý một trong hai cơ quan báo của Hội Nhà văn Việt Nam, ông làm việc theo đúng nghĩa một nhà báo.

Có cảm tưởng trong nhiều giai đoạn cuộc đời, một “nhà báo Trần Đăng Khoa” ít nhiều lấn át đi cái phần “nhà thơ Trần Đăng Khoa” vốn đã mang đến cái tiếng tăm lừng lẫy mà có lẽ ít ai làm công việc sáng tác có được. Không ít lần, Trần Đăng Khoa lên tiếng “dọa dẫm”, có lẽ không phải với ai mà như tự nhủ với chính mình: “Tôi nghỉ! (việc quản lý tờ báo). Khi về nghỉ, tôi sẽ có thời gian để hoàn thành nhiều cuốn sách mà tôi ấp ủ lâu rồi”.

Nói vậy nhưng rồi Trần Đăng Khoa cũng có bỏ được nghiệp báo đâu. Ông vẫn làm công tác báo chí cho đến tận những ngày cuối cùng của nghiệp công chức. Mà thật ra, chính Trần Đăng Khoa cũng hiểu rằng nghề báo đã mang lại cho ông cái cơ hội để nói lên những điều ông luôn đau đáu về cuộc đời, giúp ông tãi ra trên trang giấy những chiêm nghiệm nhân sinh, khắc họa những số phận con người mà văn chương thơ phú không chắc có thể làm được.

Những chân dung ông khắc họa trên trang báo không chỉ là các nhà văn, nhà thơ, những người ông biết rất rõ, nhiều người là bậc đàn anh hay bạn bè thân thiết với ông trong nghề văn; nhiều chân dung trong các bài báo của Trần Đăng Khoa chỉ là những con người yếu thế trong đời sống, có những số phận trắc trở, thậm chí bi kịch. Nói như nhà thơ Dương Tường, khi viết báo, Trần Đăng Khoa luôn “đứng về phe nước mắt”.

Chính những bài báo tưởng chừng như có đời sống ngắn ngủi ấy của Trần Đăng Khoa lại có thời kỳ khiến dư luận xã hội rúng động. Bởi cái giọng báo của Trần Đăng Khoa rất lạ, không lẫn vào đâu được, tưng tửng, hài hước nhưng rất sắc sảo, thâm thúy. Và với một thái độ cực kỳ quyết liệt mỗi khi chạm đến những bất công của con người. Khi viết về các vấn đề xã hội, ngòi bút Trần Đăng Khoa luôn có một thái độ không khoan nhượng. Chính cái phẩm chất báo chí đó đã giúp làm nên một Trần Đăng Khoa nhà báo không lẫn vào đâu được trong làng báo Việt Nam.   

 

 

Từ những năm đầu 1990, khi công cuộc Đổi mới đã lan sâu vào thực tiễn đời sống, Trần Đăng Khoa "bập" vào nghề báo, là cộng tác viên ruột của nhiều tờ, có khi còn đứng mục cho một tờ báo trong thời gian dài. Báo Nông nghiệp Việt Nam (nay là Báo Nông nghiệp và Môi trường) là một trong số những tờ báo Trần Đăng Khoa có nhiều duyên nợ.

Phần lớn các bài viết trong cuốn Chân dung và đối thoại, cuốn văn xuôi nổi tiếng từng gây bão dư luận một thời của Trần Đăng Khoa chính là tập hợp những bài ký chân dung của ông đăng tải trên Báo Nông nghiệp Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 đến 2002. Trong số ấy có nhiều bài Trần Đăng Khoa phác họa chân dung gây rúng động làng báo, làng văn thời điểm đó như các chân dung Xuân Diệu, Tố Hữu, Phù Thăng, Lưu Trọng Lư, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Đức Mậu… Nhiều người xuýt xoa tán thưởng về một giọng điệu lạ trong làng báo nhưng số khác lại “kết án” Trần Đăng Khoa là “kẻ đốt đền”.

Dù gì thì với Chân dung và Đối thoại, Trần Đăng Khoa đã phác họa chân dung của chính mình: một nhà thơ viết báo tài hoa, tinh quái và thẳng thắn, trực diện. Đã nhiều lần người viết bài này nghe nhà báo Trịnh Bá Ninh, nguyên Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam, đồng thời là bạn nối khố với Trần Đăng Khoa nhận định: cuốn Chân dung và đối thoại đánh dấu một Trần Đăng Khoa rất văn sau khi độc giả đã quen với Trần Đăng Khoa nhà thơ - nhà báo. Chẳng hiểu sao "lão ấy" có thể phân thân được, thế mới tài.

 

 

Một ngày đầu hè, khi cái nắng oi ả đã ngập tràn không gian và những chùm hoa phượng thắp cháy trên những tàng cây, tôi theo chân nhà thơ Trần Đăng Khoa cùng với nhà báo Trịnh Bá Ninh về bên sông Kinh Thầy, mạn dưới của Lục Đầu giang.

Ông Khoa vốn người ở làng Điền Trì (xã Quốc Tuấn), còn ông Ninh ở bên làng Kinh Dương (xã Hiệp Cát), những ngôi làng nổi tiếng bậc nhất của vùng Nam Sách. Cùng với mấy người bạn bên ấm nước vối, hai ông tỉ tê nói chuyện văn chương, báo chí, về câu chuyên cũ như Trái đất là báo chí và văn chương có xung đột, hay liệu báo chí có giết chết trí tượng của văn chương hay không?

"Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan" - ông Khoa cao hứng đọc hai câu thơ trong trường ca Khúc hát người anh hùng mà ông viết về anh hùng Mạc Thị Bưởi, một người con của xã Nam Tân. Rồi kể: Viết thế mà bị nhà thơ Xuân Diệu chê đấy, cho là nó dĩ nhiên như thế rồi, còn viết ra làm gì!

Ông Khoa vẫn thường gọi nhà thơ Xuân Diệu bằng thầy. Một lần, ông và Trịnh Bá Ninh đến nhà thăm Xuân Diệu, nhà thơ hóm hỉnh nhận xét rằng sân nhà Khoa có ma. Vì Xuân Diệu nghĩ đến mấy câu thơ trong bài Mưa xuân của Trần Đăng Khoa: Sáng ra, mở cửa nhìn ra/ Vẫn mưa mà đất trước nhà vẫn khô. Ý của thầy là mưa thì làm sao mà sân khô được? Lúc ấy Trịnh Bá Ninh định cãi, nhưng Trần Đăng Khoa đá vào chân, ngăn lại. Nhà thơ Xuân Diệu không thích các nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ trẻ, cãi lại mình.

“Tôi luôn muốn hỏi ông viết theo lối tả chân hay hơn hay theo lối hình tượng hay hơn?”, nhà báo Trịnh Bá Ninh chậm rãi chất vấn.

Ông Khoa trả lời: Thực ra với lối tả chân, một khi đã tả xong rồi thì nó không còn là chân nữa, nghĩa là không còn hiện thực ấy nữa. Văn chương khác với báo chí chính là ở chỗ đó. Cho nên bản thân mình vẫn luôn suy nghĩ rằng lâu nay nền văn học nước mình đã có những giai đoạn hết sức sai lầm. Ấy là bắt các nhà văn phải đi thực tế. Cái sự gượng ép nạp tư liệu một cách thô thiển ấy nó làm mất đi trí tưởng tượng của các nhà văn, biến các nhà văn trở thành nhà báo. Tôi không nghĩ nhà văn có vị thế oách hơn nhà báo hay ngược lại; mỗi nghề nó có đặc thù riêng của nó. Bắt nhà văn phải phản ánh và miêu tả thế giới trong khi sứ mệnh của họ là tạo ra thế giới mới thông qua trí tưởng tượng, đấy là một sai lầm. Theo mình thì đấy là lý do văn học của mình trong một số giai đoạn không thể nào bứt phá lên được, không có tác phẩm nào thực sự lớn cả.

“Tôi nhớ có lần nghe thầy Xuân Diệu nói với “Chàng Văn” Chế Lan Viên rằng: Chúng ta cần phải thực tế và thực tế hơn nữa. Nghe xong ông Chế Lan Viên mới bảo: Đúng, nhưng cái mồm thơ của mình nó bé quá, cần phải rạch ra để nhét đất đá của thực tế vào”, Trần Đăng Khoa tủm tỉm nhớ lại. Những hồi ức của ông luôn gắn với Xuân Diệu, người mà ông không những coi là thầy mà còn ghi lòng tạc dạ, “người có công lớn nhất đối với Trần Đăng Khoa”.

Thế sao ông Chế Lan Viên lại viết: Lần thứ nhất nhà văn đi học cấy/ Bỗng hối tiếc nghìn câu thơ nước chảy, ông Ninh hỏi tiếp.

Không trả lời thẳng vào câu hỏi, Trần Đăng Khoa kể một câu chuyện khác. Rằng một hôm, ông nghe thấy nhà văn Nguyễn Đình Thi nói với nhà thơ Trần Nhuận Minh (anh trai Trần Đăng Khoa) thế này: “Minh ơi, thơ không cần phải thực tế lắm đâu. Thực tế quá là nó nuốt mất thơ mình đấy. Với nó mình chỉ bẹo một tý rồi thổi cái hồn mình vào, đó mới là thơ đích thực”.

“Ông cụ” quả thật sắc sảo, Trần Đăng Khoa chiêm nghiệm. Văn học suy cho cùng bản chất là phải viết ra cái anh tưởng tượng. Anh phải là người dựng nên đời sống và cái thực tế của nó, tạo ra cái “thật còn hơn cả sự thật”. Nó giống như thế giới của cậu bé Trần Đăng Khoa lúc lên 8, lên 10. Sở dĩ văn chương hấp dẫn bởi nhà văn nhà thơ phần nhiều dùng trí tưởng tượng, sống và viết những gì chân thực ở trong thế giới tưởng tượng đó.

“Khoa nói đúng”, nhà báo Trịnh Bá Ninh tiếp lời, nó làm mình nhớ đến hai câu thơ trong trường ca Khúc hát người anh hùng: Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương; nhớ đến Đêm Côn Sơn với Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. Đấy dường như không chỉ là những câu thơ viết bằng mắt, bằng tai, bằng các giác quan tinh vi hay bằng tài nghệ quan sát mà còn là sự chiêm nghiệm, có khi phải viết bằng cả cuộc đời...

Cho nên mình mới nghĩ, căn bệnh lớn nhất của văn chương hiện đại có lẽ là già báo - non văn. Không tạo ra được thế giới là một nhẽ, phản ánh thế giới cũng chưa tới nơi tới chốn, chủ yếu vẫn là văn chương thông tấn, nửa báo nửa văn - nhà báo Trịnh Bá Ninh kết luận.

Về chuyện này, Trần Đăng Khoa nối lời, tôi từng có lần lý giải qua trường hợp Nguyễn Khải. Cách đây hơn hai mươi năm, khi bàn về một nhà văn lớn nổi tiếng là Nguyễn Khải, tôi nhận ra hầu như cuốn sách nào của ông ấy ra đời cũng gây được tiếng vang vì luôn đề cập những vấn đề nóng hổi của đời sống đương đại. Khảo sát thêm trong vài lần đi thực tế với ông, tôi thấy ông Khải khai thác tư liệu như một anh nhà báo. Nhân vật và cốt truyện của ông đều người thật, việc thật đã có sẵn trong đời sống.

Tôi cũng từng gọi ông Nguyễn Khải là “nhà văn thông tấn” là cách khu biệt ông với các nhà văn khác. Ông có vẻ giận. Nói thế, khác gì biến nhà văn Nguyễn Khải thành nhà báo. Mà có vẻ như Nguyễn Khải cho rằng nhận định như vậy là hạ thấp giá trị văn chương của ông.

Tôi không nghĩ nhà báo thua nhà văn, hay văn chương thì vĩnh cửu hơn báo chí. Sức sống của tác phẩm không nằm trong thể loại, mà hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng của người sáng tạo ra nó”, Trần Đăng Khoa nói rõ hơn quan điểm của ông về mối quan hệ giữa văn chương với báo chí.

Tiếp nối câu chuyện quan hệ giữa báo chí và văn chương, ông Khoa cảm kích: Tôi phải cảm ơn Báo Nông nghiệp Việt Nam ngày ấy. Nếu không có chuyên mục nhịp cầu của báo có lẽ cũng không có Chân dung và đối thoại, Người thường gặp, Hầu chuyện thượng đế. Cho dù đã có lúc vì những bài viết trong các tập sách ấy mà tôi phải đối mặt với cả một hội đồng kỷ luật.

Tôi chen vào câu chuyện của hai ông: Vậy nhà thơ Trần Đăng Khoa nghĩ thế nào về câu chuyện đang thời sự trong làng văn, làng báo: vai trò của trí tuệ nhân tạo (AI) trong thế giới văn chương? Liệu đến một ngày kia các văn thi sĩ sẽ “xếp bút nghiên” để cho “con” AI làm thay công việc mà họ đã quen làm từ hàng ngàn năm nay?

Nhà thơ Trần Đăng Khoa kiến giải và khẳng định: Tôi là một trong những người sớm nhất trong giới văn chương sử dụng AI để soạn thảo văn bản hay trả lời những câu hỏi học búa về… chính tôi! Kết quả mà AI mang lại khiến tôi thấy khâm phục về tốc độ phản ứng cũng như sự tổng hợp dữ liệu hết sức nhanh chóng của AI.

Nhưng cũng qua một vài thử nghiệm với AI, tôi rút ra hai kết luận: AI sẵn sàng “bịa” ra những dữ liệu mà nó không được huấn luyện. Nói cách khác, trông hoàn toàn vào AI để tìm câu trả lời cho một vấn đề nào đó là hết sức rủi ro. Thứ hai là, AI không thể cảm và truyền được cái mức độ tinh tế của cảm xúc khi nghe tiếng mưa rơi trên lá hay tiếng chân con ếch búng trên mặt nước.

Bởi thế, nó có thể soạn ra những văn bản gọi là văn thơ nhưng tuyệt đối không chạm đến được trái tim người đọc.

Hoàng Anh
Trương Khánh Thiện
Phạm Hiếu