

Tháng 11/2008, sau gần 4 năm bám trụ lại Cà Nàng để gom gỗ, Hoàng Văn Ịn cùng gia đình cuối cùng cũng phải rời đi, nhường chỗ cho lòng hồ Thủy điện Sơn La. Cà Nàng là địa phận thuộc huyện Quỳnh Nhai cũ của Sơn La, nơi cư trú của những bản làng người Thái trước khi thủy điện dâng nước.
Năm ấy Hoàng Văn Ịn 36 tuổi. Sau 2 chuyến xe “nhà nước cho”, toàn bộ gia sản và 4 người trong gia đình anh được đưa đến một vùng đất mới, cách Cà Nàng 170 km, gọi là Chiềng Sung (huyện Mai Sơn cũ).
Ngày đến Chiềng Sung, đi cùng Ịn còn có 29 gia đình người Thái nữa, họ bầu anh làm tổ trưởng. Đến năm 2009, chính quyền mới được kiện toàn, bản của 30 hộ dân từ Cà Nàng sang được đặt là Quỳnh Lỷ, Ịn làm trưởng bản.
Năm 2017, Quỳnh Lỷ lại nhập với Bãi Tám thành bản Quỳnh Tám như ngày nay, trưởng bản Hoàng Văn Ịn tiếp tục được tín nhiệm đứng đầu. Từ 30 hộ năm 2008, đến nay Quỳnh Tám có 78 hộ, 413 khẩu, trong đó có 44 hộ người Mông của Bãi Tám và 34 hộ người Thái của Quỳnh Lỷ, gọi là xóm trên, xóm dưới.
“Về đây, Nhà nước cho mỗi nhà 10 triệu san nền, trong nhà thêm 10 triệu hỗ trợ cho mỗi khẩu. Còn gỗ thì được gom trong 4 năm ở khu vực lòng hồ trước khi dâng nước, chở về đây dựng nhà mới”, người đàn ông sinh năm 1972 kể lại với chất giọng chậm và chắc.
Còn đất, cách tính rất đơn giản, từ 4 khẩu trở xuống nhận 1 ha, các khẩu tiếp theo, mỗi khẩu được thêm 2.000 m2. “Nhà cũ mình có 24 ha, cứ luân phiên mà trồng hoa màu, sang đây còn có 1 ha cũng hoang mang, lo lắng chứ”, trưởng bản tâm sự.
Trước khó khăn ban đầu của bà con ở vùng đất mới, chính quyền còn hỗ trợ cho mỗi khẩu 20 kg gạo/tháng, quy ra tiền, trả theo quý. Quá trình này kéo dài 3 năm, đến khi mọi thứ dần ổn định.



Nhớ lại mùa đông năm ấy, Hoàng Văn Ịn bồi hồi, 10 ngón tay có phần thô kệch đan vào nhau: “Lo thì có lo, nhưng làm sao thay đổi được, đằng nào nhà cũ cũng ngập dưới 4, 5 chục mét nước rồi. Không chối được. Nghĩ trước, nghĩ sau, cuối cùng chốt lại, mình là người núi, chỗ nào chả thế”.
Mảnh đất này, trước khi Ịn cùng bà con đến cũng có vài lượt trưởng bản khác ở Quỳnh Nhai sang xem, nhưng không ưng vì khô hạn quá. Đến lượt Ịn, anh tìm được một mó nước đầu nguồn, ít nhất là đủ để nhân dân sinh hoạt, lại thấy nông nghiệp ở đây “cũng được” nên chọn làm điểm dừng chân.
“Tôi sang đây mấy lần. Lần thì tìm thấy mó nước, lần thì được xem Công ty Cổ phần Nông nghiệp Chiềng Sung nuôi bò, trồng cỏ nên mới quyết định chọn chỗ này”, trưởng bản lý giải.
Về vùng đất mới, khó khăn đầu tiên là chỗ ở, ăn. Dân bản bảo nhau, người nọ giúp kia dựng nhà. 30 căn nhà mọc lên, Quỳnh Lỷ ra đời, 30 gia đình người Thái quây quần trên những triền đồi có phần khô khát phía Đông đường 6. Ít lâu sau đó, nước được dẫn từ mó trên núi qua ống HDPE đến tận cổng, điện được kéo đến tận nhà.
53 tuổi, trưởng bản nhẩm lại, nhà anh khi đó xây cả nhà sàn và nhà đất, gỗ gom từ Quỳnh Nhai, công anh em, hàng xóm phụ giúp nhưng nếu tính chi tiết thì cũng phải hết 300 triệu, trong đó 50 triệu đi vay.
Xong chỗ ở, lại tính cái ăn. Theo lời trưởng bản Ịn, ngày còn ở Quỳnh Nhai, sông Đà quanh năm no nước, mùa nước xuống bờ bãi màu mỡ, trồng cây gì ăn cây đấy: “Ngô dưới bãi, lúa trên nương, không bao giờ lo đói, lại còn có cả cá”.
Qua bên này, biết là khó nhưng cả bản đều xác định tâm lý đã đi cùng nhau thì cùng nhau cố gắng, bảo ban nhau, làm cùng nhau, giúp nhau thoát nghèo. Ịn cười rất sảng khoái rồi chốt lại: “Không đi đâu được nữa thì cứ làm, năm nay chưa được thì sang năm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm thì sẽ được”.
Thế rồi mọi chuyện cũng ổn. Trẻ con được đến trường ngay, ruộng nương cũng dần biết cách làm phù hợp, thêm gạo nhà nước cho, 30 gia đình người Thái dìu dắt nhau qua khó khăn ở vùng đất mới.




17 năm sau. Một chiều cuối tháng 9/2025, khi những tia nắng cuối cùng của ngày đang chấp chới bên sườn núi. Luồn qua mấy con dốc quanh co từ tỉnh lộ 110B lên đồi, hỏi nhà trưởng bản Ịn ai cũng biết, chỉ đến tận cổng.
Muộn vậy nhưng trưởng bản chưa thấy về. Có 2 đứa cháu nội của anh đang bồng bế nhau chơi ở sân, hỏi ông đâu, chúng bảo ông cháu đi nương hái đỗ chưa về.
Đúng lúc ấy, tiếng è è của chiếc xe máy không yếm, không pô của Hoàng Văn Ịn từ xa vọng về. Xe và người từ đầu dốc dần dần tiến về bản, những bao tải chất kín trước sau, lút cả người. Khoác trên người bộ quần áo màu bộ đội đã có chút bạc, Ịn cười hết cỡ, nói lớn như để át tiếng động cơ: “Vào nhà đi”.
Khéo léo lách tay lái xe từ đường bê tông xuống sân nhà sàn, anh gạt chân chống rồi khệ nệ bốc 3 bao tải đỗ đen chất lút cả xe xuống đất. Gạt những giọt mồ hôi lấm tấm trong tiết trời oi ả sau bão số 10, trưởng bản cười nói: “Tranh thủ hết mưa, mình lên đồi thu đỗ đen, làm cố tí mà tối đến nơi rồi”.
Đỗ đen là một trong vài nông sản mà người dân Quỳnh Tám dựa vào để thoát đói, thoát nghèo sau khi về nơi ở mới. Ngày mới dựng bản, những người vốn quen với con nước sông Đà không khỏi hụt hẫng trước cái khô khát, lạnh giá ở Chiềng Sung.
Mó nước Ịn tìm được trước đó chỉ đủ cho bà con sinh hoạt, nương rẫy chịu khát thay người. Nhưng khó mấy rồi cũng có cách, trưởng bản Ịn cùng bà con tìm cách để thích nghi. Ngày ở Quỳnh Nhai, anh là nhân viên thú y xã, về đây thấy Công ty Cổ phần nông nghiệp Chiềng Sung trồng cỏ, nuôi bò với quy trình hoàn chính nên xác định chăn nuôi sẽ làm hướng đi chính.


“Anh em tôi về đây là sẽ hòa nhập với công ty. Họ chào đón mình, bảo mình cách làm, sau khi được cấp đất thì cho giống và đảm bảo đầu ra”, người đàn ông dân tộc Thái với dáng người không cao nhưng bệ vệ, chắc chắn kể lại.
Giống mà anh nói là giống ngô. Ngô trồng lấy hạt, bán cho công ty ngoài ra bà con cũng nuôi thêm bò, thêm dê, cao điểm cả bản có đến hơn 600 dê, hơn 200 bò. Nhưng cũng vì thiếu thốn nước, khó đảm bảo vệ sinh nên dê với bò cũng giảm dần, giờ Quỳnh Tám chỉ có gần 200 dê và chưa đến 100 bò.
Một điểm đặc biệt so với Quỳnh Nhai là khi về Chiềng Sung bà con trong bản bỏ hẳn trồng lúa, chỉ tập trung vào ngô và đậu. Những năm đầu chỉ trồng ngô thịt và đậu đỗ, sau này có thêm cả ngô ngọt.
Kinh nghiệm thì cũng có, nhưng vì điều kiện mới, lại khắc nghiệt, khó khăn hơn nên bà con vẫn cần đến sự hỗ trợ, hướng dẫn của lực lượng khuyến nông cơ sở và học hỏi thêm những bản xung quanh, nơi người bản địa sinh sống cả trăm năm trước.
“Từ ngày có đất, thì bắt đầu làm ngô ngáy, đậu đỗ, mỗi năm 2 vụ và được hỗ trợ kỹ thuật”, Hoàng Văn Ịn nói, nhấn mạnh quan điểm không biết gì thì hỏi, thiếu gì thì đề xuất, chính quyền xã và công ty hỗ trợ rất nhiệt tình.

Nhớ lại ngày quê cũ, người Thái ruộng nương mênh mông, năm nay làm miếng này, sang năm chuyển miếng khác, đất lúc nào cũng tốt. Ấy thế mà về đây, phải học bón phân, học làm cỏ, chăm chút cho cây, cây mới cho quả.
Mất nửa thập kỷ, đến 2013 thì kinh tế cả bản bắt đầu ổn định: “Chưa giàu nhưng không phải đi xin, đi vay nhau, con cái được học hành cẩn thận”. Nhẩm một lúc, trưởng bản nói bây giờ mỗi ha, cả năm tổng thu được khoảng 120 triệu, lãi thì tầm 80-90 triệu, ngô khoảng 50, đậu thì 40 triệu vì tính ra nếu ngô làm tốt thì mỗi ha được khoảng 17-18 tấn.
So với ở Cà Nàng, thì khó làm hơn nhưng giá lại cao hơn. Ngoài ra, Công ty CP Nông nghiệp Chiềng Sung cũng có nhiều chính sách hỗ trợ, cung cấp giống, bao tiêu đầu ra cho cả ngô thịt, ngô ngọt và ngô giống nên nhân dân cứ yên tâm, túc tắc làm ăn.
Nhờ bảo ban nhau làm ăn, giờ cả bản chỉ còn 1 hộ nghèo, 1 hộ cận nghèo. Đây đều là những hộ đã suýt soát thoát nghèo, cận nghèo nhưng lao động chính trong gia đình lại bị tai nạn, qua đời nên vẫn chưa thể ra khỏi danh sách. “Mục tiêu năm tới, mấy người con của các hộ này đi bộ đội về sẽ giúp gia đình thoát nghèo thành công”, trưởng bản Ịn quả quyết.
Nhà tạm, dột nát của bản thì đã được xóa từ năm 2020, cùng thời điểm xã Chiềng Sung được công nhận nông thôn mới. Tính riêng Quỳnh Tám, thì đến 2025 cũng đáp ứng được 100% tiêu chuẩn nông thôn mới. Năm nay, Chiềng Sung đang có kế hoạch lên nông thôn mới nâng cao nhưng vì sáp nhập với Chiềng Chăn nên lại chưa kịp.
Nhìn ra đường, người đàn ông tự nhận mình “không còn quê” nói, con đường bê tông khang trang dài gần 1 km xuyên qua bản này được hoàn thành vào năm 2024. Nhà nước cho hết vật liệu, nhân dân bỏ công. Để tính công, Ịn quy từ đất, mỗi héc-ta tương đương 8 triệu tiền công, cứ thế mà nhân ra.
17 năm về Chiềng Sung, chỉ có 2022, 2023 là chuyển sang Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của xã, còn 15 năm Ịn làm trưởng bản. Người đàn ông với khuôn mặt hiền lành và nước da đen bóng vẫn đau đáu một điều: Làm sao để dân bản giàu có hơn. Câu trả lời, có lẽ anh cũng đã có, chỉ là đến khi nào mới thực hiện được mà thôi.




Sát độ Trung Thu, rong ruổi trên những con đường ở Chiềng Sung, nắng cuối mùa đổ xuống những triền đồi bát úp. Những mảnh nương loang lổ, phủ một màu vàng vàng, xam xám, tạo cảm giác vừa khô vừa nóng. Đó là màu của những thân ngô đã bẻ bắp, đang héo rũ, xơ xác chờ ngày được thay lứa mới.
Từ trục đường chính của xã Chiềng Sung, muốn vào Quỳnh Tám phải đi qua một khe núi hẹp, khiến bản của Hoàng Văn Ịn như có phần xa xôi, tách biệt hơn so với phần còn lại. Dưới những chân đồi loang lổ - dấu tích của một mùa khô khát và vất vả, vẫn lác đác có những mảng xanh của đậu đỗ đang kỳ phát triển.
Nhà Ịn ở đầu bản, sau buổi hái đỗ đen, a vần chiếc cân đồng hồ 1 tạ ra giữa sân thay cho ghế, ngồi nói tiếp về nỗi đau đáu vươn lên làm giàu của mình: “Ở đây khô quá, khó làm”. Nhìn ra lân cận như Cò Nòi, Mai Sơn… mỗi héc-ta người ta thu hàng trăm triệu, mình chỉ vỏn vẹn mấy chục, anh thèm lắm.
“Chỉ có làm cây ăn quả mới giàu được. Nhưng không có nước thì khó lắm. Nếu mà có ngước thì ngon”, Ịn nói. Anh cũng bảo bà con mấy lần thuê thợ về khoan giếng nhưng không ăn thua. Chỉ được một vài túi nước con con, đủ cho bà con sinh hoạt chứ muốn trồng trọt thì không làm được.


"Tôi đang thử trồng na", Ịn nói rất quả quyết. Theo anh, na chịu được khô, hiện nhà anh mới thử trồng 400 gốc na Thái trên diện tích khoảng 5.000 m2: “Trồng thưa thế này để xem nó ra làm sao. Dưới anh vẫn trồng xen hoa màu”. Với đặc điểm không cần nhiều nước, lại không phải thụ phấn chéo nên trưởng bản người Thái rất kỳ vọng na sẽ thành công, đưa kinh tế của bản vượt lên.
Anh kể, tự ra Cò Nòi, Mai Sơn xem người ta làm rồi học, về mày mò tự thử nghiệm trong năm nay. Trưởng bản ao ước, nếu cây này hợp đất, mỗi nhà chỉ cần 200 gốc là khác biệt ngay rồi.
Ngoài na, Ịn cũng có 4.000 gốc thanh long, một loại cây chịu hạn khác. Mặc dù không cần nhiều nước, giá trị lại cao hơn ngô nhưng thanh long yêu cầu có vốn đầu tư lớn, nên bà con chưa làm được nhiều, mới chỉ 2 hộ thử nghiệm theo.
Nếu để nói về cảm xúc của Ịn với các loài cây ăn quả, có lẽ mãnh liệt nhất là cà phê. Nhắc đến cà phê, anh như đan xen cảm xúc giữa hào hứng lẫn tiếc nuối. Bởi, cà phê có giá trị kinh tế rất cao nhưng lại không hợp với Quỳnh Tám.
“Mình trồng thử rồi, cây lên đẹp nhưng đến mùa khô, đất nứt nẻ là rễ đứt rồi chết hết”, trưởng bản hạ tông giọng, nói rồi thả một ánh mắt vô định lên phía những ngọn đồi vàng vàng, xam xám ở phía xa.
Ịn kể, anh từng thử qua nhiều loài cây ăn quả, xác định đây là cách duy nhất để giàu có, còn ngô đậu chỉ có đủ ăn. Tóm lại, nhãn, xoài, na, chanh leo thì có thể, còn cà phê, mắc ca thì muốn lắm nhưng không ăn thua: “Ở đây mà trồng được cà phê thì quá ngon”, giọng anh lại sang sảng ngay được.


Cả Hoàng Văn Ịn và mấy trăm con người ở bản Quỳnh Tám hiện nay đều đang rất cố gắng để phát triển kinh tế. Trẻ con vẫn được học hành đầy đủ, nhưng hướng đi sau khi học hết lớp 12 lại rất khác nhau. Cả bản chỉ có 3-4 em đi học đại học, phần còn lại đều gắn liền với nông nghiệp.
“Đến ngày mùa, anh em trong bản sẽ giúp nhau thu hoạch, xong xuôi thì đi sang các bản khác làm thuê, ngày kiếm 200-300 ngàn đồng”, trưởng bản nói, không quên bổ sung là việc không thiếu, thanh niên có chịu làm hay không thôi.
Nó cũng giống việc học, rất thuận tiện chỉ là có muốn học hành tử tế hay không mà thôi, nói đến đây, vai người đứng đầu Quỳnh Tám chùng xuống, “người chịu khó thì học nghề nọ nghề kia, ai mà không chịu khó thì làm nông, xây dựng gia đình”. Chắc anh cũng có chút buồn.
Ở Quỳnh Tám, đất nông nghiệp gần 20 năm nay vẫn thế, không mở rộng ra được nên cơ hội để bật lêm cũng khó. Nhiều thanh niên lựa chọn các khu công nghiệp, làm công nhân để cải thiện kinh tế.
Hoàng Văn Ịn nói, cả bản giờ có khoảng hơn 30 thanh niên về xuôi làm công nhân, có người tranh thủ lúc nông nhàn làm 2, 3 tháng rồi về, có người lại đi biền biệt cả năm.
Biết vậy chỉ là giải pháp tình thế tức thời, nhưng muốn thanh niên không đi nữa, thì anh phải tìm được cách để giải được lời nguyền khô khát của mảnh đất này.
“Xã rồi khuyến nông, công ty cũng hướng dẫn, tập huấn tận tình lắm, nhưng mình vẫn là người làm trực tiếp, được hay mất, làm hay bỏ là do mình mà thôi”, trưởng bản thủng thẳng, cùng lúc dang tay đón cháu gái nội đang chạy chơi trong sân, sà vào lòng ông nũng nịu, hóng chuyện với người lớn.


Đến Quỳnh Tám khi nắng còn chấp chới sườn núi, lúc ngưng chuyện thì trăng đã lên. Trăng sát Rằm tháng Tám, lại sau mưa bão nên rất to và sáng. Ánh trăng vằng vặc phả lên những triền đồi, soi rõ những nương ngô, ruộng đậu.
Tiễn khách ra về, trưởng bản đứng chống tay vào cổng nhà bằng bê tông, giọng chắc nịch: “Có khó, nhưng vẫn hơn quê cũ”. Gió hiu hiu thổi, cái gió dịu dịu của đêm mùa thu. Trên bầu trời cao lồng lộng, sao cũng đã kịp lên chi chít.