| Hotline: 0983.970.780

Đặt con người làm trọng tâm trong làn sóng phát triển mạnh mẽ của AI

Thứ Hai 15/09/2025 , 21:41 (GMT+7)

Nhóm người lao động phi chính thức, người cao tuổi, vùng dân tộc thiểu số... đang có xu hướng bị bỏ lại phía sau trong làn sóng phát triển của AI và chuyển đổi số.

Chia sẻ tại Hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề "Sức mạnh không giới hạn và những thách thức khó dự báo của trí tuệ nhân tạo - Tác động và ứng phó chính sách" ngày 15/9, các chuyên gia đã chỉ ra một thực tế đáng lo ngại: những nhóm người như lao động phi chính thức, người cao tuổi, vùng dân tộc thiểu số... đang có xu hướng bị bỏ lại phía sau trong làn sóng phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo (AI) và chuyển đổi số.

Các chuyên gia đều cho rằng, phát triển công nghệ cần đi kèm với chính sách bảo vệ và hỗ trợ phù hợp để không ai bị bỏ lại phía sau. Ảnh: Mai Hà.

Các chuyên gia đều cho rằng, phát triển công nghệ cần đi kèm với chính sách bảo vệ và hỗ trợ phù hợp để không ai bị bỏ lại phía sau. Ảnh: Mai Hà.

Đặt con người ở trung tâm kỷ nguyên AI

GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhấn mạnh: Trong mọi chiến lược phát triển quốc gia, yếu tố con người phải luôn ở vị trí trung tâm. Tuy nhiên, trước làn sóng chuyển đổi số và sự trỗi dậy mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo, cách tiếp cận về con người cần được định vị lại một cách rõ ràng, thực chất, không thể chỉ dừng ở những tuyên bố “bong bóng”.

Ông Long cho rằng, trong thời đại mới, con người không chỉ là người sử dụng hay thụ hưởng công nghệ, mà còn là nhóm dễ bị tổn thương nhất nếu thiếu chính sách bảo vệ phù hợp. Dưới góc độ nghiên cứu dân số và an sinh xã hội, GS Long nhận định: kỳ vọng vào công nghệ là cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nhưng Việt Nam đang đối diện hàng loạt thách thức về cơ cấu dân số, chất lượng nguồn nhân lực và khả năng tiếp cận công nghệ.

GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, nhấn mạnh: Trong kỷ nguyên AI, bảo vệ con người, nhất là nhóm yếu thế chính là thước đo của sự văn minh và bền vững. Ảnh: Mai Hà.

GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, nhấn mạnh: Trong kỷ nguyên AI, bảo vệ con người, nhất là nhóm yếu thế chính là thước đo của sự văn minh và bền vững. Ảnh: Mai Hà.

Theo số liệu, Việt Nam có khoảng 16 triệu người cao tuổi - nhóm dễ bị thiệt thòi trong quá trình số hóa nếu thiếu cơ chế tiếp cận công bằng.

Bên cạnh đó, dù có hơn 65 triệu thanh niên ở độ tuổi 15-24 nhưng chỉ khoảng 12% tham gia các công việc liên quan tới công nghệ cho thấy khoảng cách đáng kể giữa đào tạo và nhu cầu thực tế.

Đặc biệt, gần 50% lực lượng lao động hiện nay là lao động phi chính thức, không có hợp đồng và không được bảo vệ bởi chính sách an sinh thích hợp. “Nếu không có chính sách kịp thời, họ chính là những người bị bỏ lại phía sau trong nền kinh tế số”, ông Long cảnh báo.

Ngoài ra, nhóm lao động “phi truyền thống” - những người làm việc tự do, linh hoạt nhưng thiếu nền tảng bảo hiểm xã hội và cơ chế bảo vệ khi mất sức lao động hoặc về già cũng đang gia tăng, trong khi các chương trình hiện có như bảo hiểm xã hội tự nguyện mới chỉ bao phủ chưa tới 40% người lao động tự do. GS Long cho rằng, đây là lỗ hổng chính sách cần được xử lý khẩn cấp.

Ông Long nhấn mạnh: “Phát triển công nghệ là cần thiết, nhưng đi cùng với đó phải là chính sách an sinh xã hội toàn diện, công bằng và thích ứng. Trong kỷ nguyên AI, bảo vệ con người, nhất là nhóm yếu thế chính là thước đo của sự văn minh và bền vững”.

GS Long cũng cảnh báo về nguy cơ “bong bóng kỳ vọng” khi ứng dụng AI và chuyển đổi số: kỳ vọng quá mức mà thiếu cơ sở thực tiễn có thể dẫn tới định hướng sai, lãng phí nguồn lực và tạo hệ lụy khó lường. Ông dẫn chứng: “Chúng ta từng chứng kiến đầu những năm 2000, nhiều công nghệ được kỳ vọng sẽ thay đổi thế giới, nhưng thực tế chỉ dừng ở một nửa bước đi”.

Từ thực tế đó, ông nhấn mạnh sự cần thiết của thái độ tỉnh táo: không đầu tư dàn trải hay chạy theo phong trào mà phải gắn với nhu cầu thực tế của người dân và địa phương; đồng thời phải tránh nguy cơ bất bình đẳng công nghệ, khi AI chỉ phục vụ một nhóm doanh nghiệp lớn còn doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và người lao động phổ thông bị đứng bên lề.

Bên cạnh đó, một mối lo khác được ông Long nêu ra là nguy cơ lạm dụng công nghệ nếu thiếu chuẩn mực đạo đức và quy tắc liêm chính. Do đó, chúng ta phải đề cao vai trò của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp, đạo đức dữ liệu và tư duy phản biện trong đào tạo nhân lực AI, để công nghệ thực sự phục vụ lợi ích cộng đồng chứ không trở thành công cụ gây hại.

Công nghệ phải đi đôi với an sinh xã hội

Trong lĩnh vực y tế, chuyển đổi số đang diễn ra nhanh chóng với việc triển khai các phần mềm tích hợp hỗ trợ quản lý, chẩn đoán và điều trị. Nhiều ứng dụng AI đã chứng minh hiệu quả rõ rệt: nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, rút ngắn thời gian xử lý thông tin và tăng cường cá nhân hóa điều trị. Các công cụ chẩn đoán hình ảnh giúp bác sĩ đưa ra chỉ định chính xác hơn, trong khi hệ thống phân tích dữ liệu lớn xây dựng phác đồ phù hợp từng bệnh nhân, tối ưu kết quả điều trị.

Hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề 'Sức mạnh không giới hạn và những thách thức khó dự báo của trí tuệ nhân tạo - Tác động và ứng phó chính sách' diễn ra ngày 15/9. Ảnh: Mai Hà.

Hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề "Sức mạnh không giới hạn và những thách thức khó dự báo của trí tuệ nhân tạo - Tác động và ứng phó chính sách" diễn ra ngày 15/9. Ảnh: Mai Hà.

TS Nguyễn Khánh Phương, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (Bộ Y tế), cho rằng việc đào tạo kỹ năng số cho cán bộ y tế và cộng đồng địa phương là giải pháp quan trọng để thu hẹp khoảng cách số trong chăm sóc sức khỏe.

Tuy nhiên, bà Phương chỉ ra thực trạng, sự chênh lệch rõ rệt giữa người thu nhập cao và thấp, giữa đồng bào dân tộc thiểu số và cư dân thành thị, giữa vùng sâu vùng xa và khu vực đô thị. Bất bình đẳng thể hiện từ hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị y tế, kết nối mạng đến khả năng tiếp cận thông tin và quyền lợi bảo hiểm y tế. Nhiều cơ sở y tế tuyến dưới vẫn thiếu hạ tầng công nghệ nên khó kết nối với bệnh viện tuyến trên - nơi tập trung chuyên gia và nguồn lực tốt hơn.

Theo bà Phương, nguyên nhân cốt lõi nằm ở thể chế. Việt Nam đã có khung pháp lý chung nhưng riêng chăm sóc sức khỏe cần hoàn thiện văn bản dưới luật, quy định rõ về chia sẻ, liên thông dữ liệu, quyền tiếp cận dịch vụ và nghĩa vụ các bên.

Một việc cấp thiết khác là định nghĩa rõ ràng và thiết lập hành lang pháp lý cho việc sử dụng dữ liệu sức khỏe cá nhân, nhằm bảo mật thông tin và giảm rủi ro cho bệnh nhân; đồng thời thống nhất nguyên tắc chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở y tế, bảo hiểm và cơ quan quản lý để tránh tình trạng “mỗi nơi một kiểu”.

TS Nguyễn Khánh Phương nhấn mạnh: Với 102 triệu dân, mỗi người cần và có quyền có danh tính y tế điện tử, không phân biệt vùng miền hay thu nhập. Khi dữ liệu được liên thông và bảo vệ tốt, người dân sẽ không còn bị bỏ lại phía sau trong hệ thống y tế số.

Ngoài ra, cần ban hành quy định đạo đức nghiêm ngặt để ngăn chặn lạm dụng công nghệ xâm phạm quyền lợi người bệnh. Nhà nước cần đầu tư trọng điểm cho hạ tầng công nghệ số ở vùng khó khăn và xây dựng chương trình đào tạo kỹ năng số cho cán bộ y tế cũng như cộng đồng địa phương để thu hẹp khoảng cách số và bảo đảm tiếp cận đồng đều.

Xem thêm

Bình luận mới nhất