| Hotline: 0983.970.780

Bảo vệ đa dạng sinh học, nhân lên sự sống trong lòng biển

Thứ Ba 10/06/2025 , 10:24 (GMT+7)

Thảm cỏ biển, rạn san hô chính là những ‘chiếc nôi’ nuôi dưỡng sự sống trong lòng biển, khởi nguồn cho nguồn lợi thủy sản cực kỳ phong phú trên vùng biển Việt Nam.

Đây là chia sẻ từ TS Nguyễn Song Tùng, Viện trưởng Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững (trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam).

Việt Nam - một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển hàng đầu thế giới

Dẫn chứng đánh giá của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), TS Nguyễn Song Tùng cho biết: Biển Việt Nam là nơi cư ngụ của khoảng 11.000 loài sinh vật biển, phân bố trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái tiêu biểu như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, đầm phá, bãi triều… Sáu vùng đa dạng sinh học biển chính trải dài từ vịnh Bắc Bộ đến vùng biển Trường Sa, tạo nên “bức tranh sống” đầy sắc màu dưới đáy đại dương.

Các hệ sinh thái này không chỉ là “nhà” của các loài sinh vật biển mà còn là “lá phổi xanh” của đại dương, giúp điều hòa khí hậu, phòng chống thiên tai và cung cấp sinh kế bền vững cho hàng triệu người dân ven biển.

San hô, cỏ biển tạo nên môi trường sống lý tưởng cho các loài thủy sản. Ảnh: Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm.

San hô, cỏ biển tạo nên môi trường sống lý tưởng cho các loài thủy sản. Ảnh: Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm.

"Nguồn lợi thủy sản cực kỳ phong phú ở Việt Nam là điều không phải bàn cãi. Vấn đề ở đây, bảo tồn đa dạng sinh học biển không phải là bỏ qua phát triển kinh tế. Ngược lại, đó là nền tảng cho một nền kinh tế biển bền vững" - TS Nguyễn Song Tùng nhấn mạnh. Theo các nghiên cứu, một hệ sinh thái san hô có thể mang lại giá trị kinh tế tới 100 triệu USD mỗi năm, hệ sinh thái cỏ biển đóng góp tới 20 triệu USD, và mỗi ha đầm phá có thể mang lại thu nhập 2.000 USD/năm từ thủy sản và dịch vụ du lịch.

TS Nguyễn Song Tùng, Viện trưởng Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững nhấn mạnh, mỗi hành động bảo vệ biển hôm nay chính là đóng góp thiết thực vào cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 mà Việt Nam đã đưa ra. Ảnh: Khánh Ly.

TS Nguyễn Song Tùng, Viện trưởng Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững nhấn mạnh, mỗi hành động bảo vệ biển hôm nay chính là đóng góp thiết thực vào cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 mà Việt Nam đã đưa ra. Ảnh: Khánh Ly.

Không chỉ thế, các thảm cỏ biển còn là “bể chứa carbon xanh” cực kỳ hiệu quả. Với khả năng hấp thụ carbon cao gấp 35 lần so với rừng mưa nhiệt đới, việc bảo tồn và phục hồi cỏ biển được xem là một trong những giải pháp quan trọng để ứng phó với biến đổi khí hậu.

Tại Việt Nam, theo một nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, giá trị carbon hữu cơ trong hệ sinh thái cỏ biển lên tới khoảng 3,2 triệu tín chỉ carbon, ước tính tương đương hơn 64 triệu USD – một con số đáng kể trong nỗ lực xây dựng thị trường tín chỉ carbon và phát triển kinh tế xanh. Đây là loại carbon có giá trị cực cao do yếu tố công hưởng từ bảo toàn đa dạng sinh học và những vai trò kể trên.

Việt Nam – với đường bờ biển dài hơn 3.200 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km² – không chỉ là quốc gia biển, mà còn là một trong những trung tâm đa dạng sinh học biển quan trọng của thế giới. Theo Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), nước ta nằm trong nhóm 10 trung tâm đa dạng sinh học biển hàng đầu thế giới, và thuộc top 20 vùng biển có nguồn lợi hải sản phong phú nhất toàn cầu.

Cấp bách ngăn chặn đà suy giảm hệ sinh thái

Theo TS Nguyễn Song Tùng, trong những năm gần đây, các nhà khoa học và nhà quản lý đều ghi nhận những tín hiệu đáng báo động. Hệ sinh thái biển Việt Nam đang suy giảm nhanh chóng. Diện tích rừng ngập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long đã giảm tới 80% trong vòng 50 năm qua, chủ yếu do chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản và lấn biển. Tình trạng tẩy trắng san hô lan rộng khiến tỷ lệ che phủ trung bình của san hô ở nhiều khu vực giảm xuống dưới 20%. Thảm cỏ biển cũng đang bị thu hẹp do ô nhiễm và khai thác quá mức.

Nguồn lợi thủy sản tự nhiên giảm mạnh, kích thước cá khai thác ngày càng nhỏ, cho thấy sức ép khai thác đang vượt quá khả năng tái tạo của đại dương.

Những năm qua, Việt Nam tích cực tham gia các sáng kiến toàn cầu về bảo vệ đại dương. Là thành viên của Liên minh Đại dương Toàn cầu (GOA), nước ta cam kết góp phần bảo vệ ít nhất 30% diện tích đại dương thế giới vào năm 2030. Việt Nam cũng là một bên tham gia Hiệp định về Biển cả và nhiều công ước quốc tế về bảo tồn tài nguyên sinh học biển.

Trong nước, Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030 – một bước đi chiến lược nhằm giảm ô nhiễm nhựa, một trong những nguyên nhân hàng đầu gây hủy hoại sinh cảnh biển.

Tính đến tháng 6/2025, cả nước đã thành lập và đưa vào hoạt động 11/16 khu bảo tồn biển theo quy hoạch. Ảnh minh họa. 

Tính đến tháng 6/2025, cả nước đã thành lập và đưa vào hoạt động 11/16 khu bảo tồn biển theo quy hoạch. Ảnh minh họa. 

Để bảo vệ hệ sinh thái biển, Việt Nam đã xây dựng một mạng lưới các khu bảo tồn biển (MPAs). Tính đến tháng 6/2025, cả nước đã thành lập và đưa vào hoạt động 11/16 khu bảo tồn biển theo quy hoạch, bao gồm những địa danh nổi bật như Cát Bà, Cù Lao Chàm, Vịnh Nha Trang, Côn Đảo, Phú Quốc… Các khu bảo tồn này đóng vai trò then chốt trong việc phục hồi sinh cảnh, duy trì nguồn giống, đồng thời tạo điều kiện cho phát triển kinh tế biển bền vững qua nghề cá, du lịch sinh thái và nuôi trồng hải sản có trách nhiệm.

Tuy vậy, so với quy mô và tầm quan trọng của vùng biển Việt Nam, diện tích được bảo vệ vẫn còn khiêm tốn. Nỗ lực mở rộng, nâng cao hiệu quả quản lý các khu bảo tồn biển là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Việc bảo tồn biển không thể chỉ trông chờ vào các chính sách từ Trung ương cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước, mà cần sự tham gia tích cực của cộng đồng ven biển, doanh nghiệp và từng người dân.

Thu gom rác thải ven bờ biển - một hoạt động đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi từ các cấp chính quyền đến cộng đồng. Ảnh minh họa.

Thu gom rác thải ven bờ biển - một hoạt động đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi từ các cấp chính quyền đến cộng đồng. Ảnh minh họa.

Đầu tiên, cần thay đổi cách nhìn về bảo tồn. Đây không phải là lực cản của phát triển, mà chính là nền tảng cho phát triển bền vững. Nghị quyết số 36-NQ/TW năm 2018 của Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đã xác định rất rõ: cần chuyển tư duy từ khai thác đơn thuần sang sử dụng bền vững và bảo tồn tài nguyên biển.

Muốn vậy, hệ thống chính sách và pháp luật liên quan cần được rà soát, điều chỉnh để phù hợp hơn với bối cảnh hiện nay – nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế sâu rộng. Các luật như Luật Biển Việt Nam, Luật Tài nguyên và môi trường biển, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ môi trường… cần có sự liên thông, đồng bộ và dễ thực thi.

Tiếp theo là tăng cường sự tham gia của cộng đồng địa phương và khu vực tư nhân. Bảo tồn không thể chỉ là việc của Nhà nước. Người dân ven biển, doanh nghiệp, tổ chức xã hội dân sự – mỗi bên đều có vai trò nhất định. Từ các mô hình đồng quản lý nghề cá, quản lý rạn san hô cộng đồng cho đến các sáng kiến du lịch sinh thái có trách nhiệm, tất cả đều cần được khuyến khích và hỗ trợ.

Các hộ nuôi trồng thủy sản huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh chuyển đổi phao xốp sang phao nhựa HDPE. Ảnh: Báo Quảng Ninh.

Các hộ nuôi trồng thủy sản huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh chuyển đổi phao xốp sang phao nhựa HDPE. Ảnh: Báo Quảng Ninh.

Chúng ta cũng cần siết chặt quản lý tình trạng khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Việc cải thiện hệ thống giám sát tàu cá, nâng cao năng lực quản lý nghề cá, hướng đến hoạt động đánh bắt có trách nhiệm không chỉ nhằm tháo gỡ "thẻ vàng" của EU, mà còn vì tương lai của chính ngành thủy sản nước nhà.

Cuối cùng, không thể tách rời mục tiêu bảo tồn biển khỏi mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu. Hệ sinh thái biển – từ rạn san hô đến cỏ biển – đều là “tấm khiên xanh” giúp hấp thụ carbon, giảm thiểu tác động khí hậu. Mỗi hành động bảo vệ biển hôm nay chính là đóng góp thiết thực vào cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 mà Việt Nam đã đưa ra.

Mỗi người đều có thể góp phần hành động và bắt đầu từ những điều rất nhỏ: hạn chế sử dụng đồ nhựa dùng một lần, không xả rác ra biển, tuân thủ quy định trong đánh bắt… Nếu là du khách, hãy lựa chọn các tour du lịch sinh thái thân thiện với môi trường. Nếu là doanh nghiệp, hãy đầu tư vào các mô hình khai thác và nuôi trồng bền vững. Đây chính là cách để góp sức để giữ gìn “kho báu” trong lòng biển ở lại với Việt Nam.

Xem thêm
Kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý vi phạm khai thác khoáng sản

Ngành Nông nghiệp và Môi trường Khánh Hòa sẽ phối hợp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn để xử lý vi phạm.

Quảng Ngãi gia cố đê điều, thủy lợi trước mùa mưa lũ

UBND tỉnh Quảng Ngãi chỉ đạo các sở, ban, ngành và địa phương tăng cường công tác bảo đảm an toàn công trình đê điều, thủy lợi trong mùa mưa, lũ năm 2025.

Bình luận mới nhất