An Giang và Kiên Giang sáp nhập, thành tỉnh An Giang mới, không chỉ mở rộng diện tích quản lý mà còn mở ra cơ hội chiến lược nâng tầm ngành nuôi trồng thủy sản và xuất khẩu.
Có vị trí địa lý thuận lợi, bờ biển trải dài trên 200 km, ngư trường rộng trên 63.000 km2, mạng lưới sông ngòi, hệ sinh thái đa dạng và nguồn nước dồi dào quanh năm, An Giang đang thực thi chiến lược phát triển lĩnh vực thủy sản một cách bài bản, dài hạn và bền vững. Mục tiêu đặt ra rõ ràng, sẽ trở thành trung tâm nuôi, chế biến và xuất khẩu thủy sản hàng đầu vùng ĐBSCL nói riêng, cả nước nói chung. Từ đó, đóng góp vào tăng trưởng GRDP, giải quyết việc làm, ổn định đời sống nông thôn, nhấn mạnh vào nâng cao vị trí thương hiệu “cá tra An Giang” trên bản đồ quốc tế.



Tỉnh An Giang mới đang sở hữu lợi thế thiên nhiên độc đáo khi kết hợp giữa vùng nội địa nước ngọt và khu vực ven biển vùng Kiên Giang (cũ). Bờ biển dài hơn 200 km, ngư trường rộng trên 63.000 km2 cùng mạng lưới sông Tiền (87 km) và sông Hậu (100 km) xuyên suốt, tạo nên hệ thống kênh rạch chằng chịt. Các vùng bãi bồi ven sông, khả năng trao đổi nước giữa hai dòng chính giúp bổ sung phù sa tự nhiên, duy trì cân bằng sinh thái, đồng thời là môi trường lý tưởng cho việc nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn đều thuận lợi.
Thêm vào đó, khí hậu nhiệt đới gió mùa kết hợp nguồn nước ngọt dồi dào quanh năm, cùng truyền thống đánh bắt, nuôi trồng thủy sản của ngư dân từ nhiều thế hệ giúp An Giang nhanh chóng phát triển từ quy mô nhỏ lên công nghiệp hóa, xuất khẩu thủy sản khá mạnh, nằm trong “top” của vùng ĐBSCL.
Không nhiều tỉnh ĐBSCL mà có đủ cả 3 vùng nuôi lý tưởng như An Giang đang sở hữu: nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Đây có thể xem như là ưu ái được “trời ban” cho An Giang mới, mở ra tiềm năng đầy hứa hẹn để phát triển mạnh ở nhiều lĩnh vực nông - lâm - thủy sản.

Đối với vùng nước ngọt (nội địa), nhờ nằm giáp với sông Tiền, sông Hậu (nơi có nhiều phù sa) nên phù hợp nuôi cá tra thương phẩm quy mô lớn.
Vùng nước lợ, các xã ven biển như An Minh, An Biên, Hòn Đất, Hà Tiên (thuộc khu vực Kiên Giang cũ) nuôi nghêu, sò huyết, cua biển, vẹm xanh trên diện tích hơn 24.000 ha, đạt sản lượng hơn 96.000 tấn/năm.
Vùng nước mặn: An Giang hướng tới nuôi biển như cá bớp, cá mú trân châu trong lồng bè công nghệ cao - được tỉnh thúc đẩy như một ngành kinh tế mũi nhọn trong tương lai gần.
Nhờ kết hợp ba vùng nước, An Giang mới có lợi thế vượt trội trong phát triển chuỗi giá trị thủy sản toàn diện, đa dạng, và quan trọng là giảm độ rủi ro do môi trường hoặc biến đổi khí hậu.
Ông Hồ Văn Mừng, Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, tự hào khẳng định: Hiện nay, ngoài trồng trọt, lĩnh vực thủy sản là một trong những ngành kinh tế chủ lực của tỉnh. Trong thời gian tới, tỉnh sẽ tập trung nguồn lực phát triển ngành này theo hướng hiện đại, xanh, tuần hoàn và bền vững trên cả 3 vùng nước. Để làm được điều đó, tỉnh sẽ ưu tiên cải thiện hạ tầng, thu hút đầu tư, xây dựng chuỗi giá trị khép kín từ con giống, vùng nuôi đến chế biến, xuất khẩu.
Chủ tịch UBND tỉnh An Giang thông tin thêm, sau khi sáp nhập tỉnh, có nhiều thứ thuận lợi, vì vậy không thể phát triển thủy sản theo tư duy cũ mãi được, mà cần tái cấu trúc toàn bộ, từ sản xuất, chế biến đến xúc tiến thương mại và quản lý môi trường. Doanh nghiệp và ngư dân phải lấy khoa học công nghệ và chuyển đổi số làm nền tảng cho sự phát triển.



Điển hình ở An Giang, có Công ty Nam Việt chuyên nuôi, chế biến xuất khẩu thủy sản sang hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đa phần nguồn nguyên liệu của công ty được nuôi tại vùng Tứ giác Long Xuyên. Có thể nói, đây là một trong những doanh nghiệp đầu tàu của tỉnh, biết tận dụng lợi thế, tiềm năng sẵn có để phát triển ngành thủy sản vương ra thị trường quốc tế khá mạnh.
Ông Doãn Tới, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Nam Việt chia sẻ, từ năm 2000, ông đã tiên phong đầu tư vùng nuôi cá tra quy mô công nghiệp, kết hợp xây dựng nhà máy chế biến khép kín. Điểm quan trọng là tạo ra chuỗi giá trị từ con giống đến chế biến và xuất khẩu.
Hiện, Công ty Nam Việt đang sở hữu vùng nuôi 400 ha, thu hút 7.000 lao động địa phương. Kim ngạch xuất khẩu trên 30 triệu USD/năm, sản phẩm đến hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ông Tới nhận định: An Giang có hệ sinh thái thủy sản rất hoàn chỉnh, từ vùng nước ngọt, mặn và lợ sẽ hỗ trợ nuôi trồng thủy sản mang tính bền vững. Vấn đề là cần tăng cường tính liên kết giữa người nuôi, doanh nghiệp, nhà khoa học và chính quyền để cùng tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, đáp ứng chuẩn quốc tế. Nếu làm được điều này, An Giang hoàn toàn có thể trở thành trung tâm thủy sản của vùng và quốc gia.



Bổ sung nhận định trên, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang Quách Văn Toàn, thông tin kế hoạch sản lượng cho năm 2025: tổng sản lượng thủy sản đạt 1.569.803 tấn, gồm khai thác (422.300 tấn) và nuôi trồng (1.147.504 tấn). Ông khẳng định, 6 tháng đầu năm, sản xuất gần đạt, thậm chí vượt 50% kế hoạch. Có thể kể đến một số ngành hàng mũi nhọn như tôm (đạt hơn 45%, kế hoạch cả năm là 155.000 tấn); cá tra (đạt hơn 57%, kế hoạch cả năm là 639.385 tấn); nuôi biển (đạt hơn 49%, kế hoạch cả năm là 104.500 tấn); nuôi trai lấy ngọc hoàn thành xuất sắc, đạt 191,67% kế hoạch cả năm.
Ông Toàn nhấn mạnh, nếu tiếp tục đẩy mạnh phát triển nuôi biển, con giống chất lượng cao, kết hợp chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ, tỉnh sẽ hoàn thành kế hoạch cả năm 2025, vượt mục tiêu tăng trưởng 10% khu vực nông - lâm - thủy sản đã giao.
Ông Quách Văn Toàn thông tin thêm, sau khi sáp nhập tỉnh, An Giang mới đã bắt đầu tái cấu trúc ngành thủy sản toàn diện, từ con giống tốt, vùng nuôi đạt chuẩn quốc tế, nhà máy chế biến hiện đại, đến thị trường xuất khẩu và quản lý môi trường thông minh. Tất cả hướng đến mục tiêu sản phẩm mang thương hiệu “An Giang” đại diện thủy sản Việt Nam trên thương trường quốc tế.


Theo quy mô vùng nuôi và nhà máy chế biến, hiện An Giang có 23 nhà máy chế biến cá tra với tổng công suất trên 350.000 tấn/năm. Bên cạnh đó, hơn 45 vùng nuôi tập trung (từ 5 ha trở lên) tạo cơ sở vùng nguyên liệu ổn định và dễ kiểm soát chất lượng.
Các doanh nghiệp lớn như Việt Úc, Vĩnh Hoàn, Nam Việt, Lộc Kim Chi… đã đầu tư vào vùng giống chất lượng cao, nhiều dự án có quy mô từ 50 ha đến 450 ha.
An Giang hiện có 4 vùng sản xuất giống đạt chuẩn như BAP, GlobalGAP, 10 vùng nuôi đạt ASC/BAP. Trung tâm Giống thủy sản An Giang cung cấp hằng năm khoảng 4,6 tỷ cá tra bột và 1,2 tỷ cá tra giống chất lượng cao cho ĐBSCL, với tổng số bố mẹ lên đến 92.946 con, trong đó 32.000 con đang sinh sản. Trong khi đó, diện tích nước mặt ương giống đạt 766 ha với 639 cơ sở, tổng năng lực khoảng 2-3 tỷ con cá hương/năm.


Trung tâm còn phát triển thành công giống tôm càng xanh toàn đực theo công nghệ Israel, cung ứng khoảng 30 triệu con giống/năm. Các giống bản địa như chạch lấu, cá sặc rằn, cá linh ống, cá lăng nha, cá lóc, lươn, ếch… cũng đang được nuôi theo tiêu chuẩn kỹ thuật cao, phục vụ đa dạng thị trường nội địa và xuất khẩu.
Ngoài ra, vấn đề chuỗi liên kết cũng là chìa khóa đảm bảo giá trị gia tăng cho ngành thủy sản An Giang tăng sức mạnh cũng như khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế.
Từ con giống chất lượng đến vùng nuôi đảm bảo chuẩn Quốc tế (ASC, BAP, GlobalGAP), rồi chế biến sâu và tiếp cận thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật, Trung Quốc… tất cả đều hướng đến sản phẩm thủy sản có giá trị gia tăng cao và ổn định.
Các vùng nuôi trồng thủy sản không chỉ tạo giá trị kinh tế mà còn giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động. Tại vùng nuôi của Công ty Nam Việt, hơn 7.000 lao động được sử dụng ổn định. Các vùng nuôi lồng bè và ao thả tại An Minh, Tân Châu, Châu Phú, Hà Tiên… cũng kéo theo nhu cầu về lao động địa phương, kỹ thuật nuôi, và dịch vụ liên quan.
Thêm vào đó, tỉnh An Giang còn đẩy mạnh công tác chống khai thác IUU giúp nâng cao uy tín thủy sản An Giang trên thị trường quốc tế. Tỉnh đã tiến hành xác nhận nguồn gốc thủy sản cho 46 hồ sơ và cấp 395 giấy nhận bốc dỡ, xử phạt các trường hợp vi phạm với tổng số tiền khoảng 60 triệu đồng.


Trước mắt, ngành nông nghiệp An Giang đang hoàn thiện hạ tầng chiến lược logistics. Dự án đường cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, dự kiến khánh thành vào tháng 12/2025, sẽ là đòn bẩy cải thiện vận chuyển, giảm chi phí logistics và tăng khả năng tiêu thụ, xuất khẩu sản phẩm thủy sản. Những tuyến đường nội vùng kết nối đến nhà máy, vùng nuôi, cảng sông và cảng biển cũng đang được tỉnh thúc đẩy đầu tư bổ sung.
Ngoài ra An Giang còn chú trọng đào tạo lao động kỹ thuật cao, kết nối với các viện, trường đại học, viện nghiên cứu để phát triển giống mới, công nghệ nuôi thân thiện môi trường, chế biến sâu và chuyển đổi số. Các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như tôm - lúa ASC, nuôi cá biển lồng bè thông minh… đều dựa trên nền tảng này.
Ngoài cá tra truyền thống, An Giang tích cực mở rộng nuôi các loài cá biển (cá mú trân châu, cá bớp…), tôm nước lợ, cua biển, cá bản địa và trai lấy ngọc. Mô hình nuôi biển có tiềm năng lớn, phù hợp với xu hướng tiêu dùng khắt khe từ thị trường châu Âu, Nhật Bản, Mỹ…



Tỉnh đặt mục tiêu phát triển theo hướng kinh tế xanh, tuần hoàn, thân thiện môi trường bao gồm chứng nhận sản phẩm phát thải thấp, mô hình nông nghiệp tuần hoàn sử dụng phụ phẩm nuôi trồng làm phân bón hoặc thức ăn tái chế. Song song đó, tăng diện tích nuôi đạt các tiêu chuẩn như ASC, BAP, VietGAP để chiếm tối thiểu 40% tổng diện tích nuôi thủy sản.
Sự phát triển ngành thủy sản của An Giang là sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền và doanh nghiệp. Chính quyền tỉnh (qua UBND và Sở Nông nghiệp và Môi trường) đã xác lập mục tiêu tăng trưởng cụ thể, tạo hành lang chính sách thuận lợi, đầu tư hạ tầng, thúc đẩy liên kết vùng và đẩy mạnh kiểm soát IUU.

Doanh nghiệp xuất khẩu như: Nam Việt, Vĩnh Hoàn, Việt Úc, Minh Phú, Lộc Kim Chi… đều là những mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị, nắm giữ công nghệ, chuẩn quốc tế và có khả năng đầu tư lâu dài.
Người nuôi là nguồn lao động chủ lực, trực tiếp sản xuất và thực hiện các mô hình nuôi theo tiêu chuẩn. Còn ngành nông nghiệp tỉnh chú trọng việc tập huấn kỹ thuật, nâng cao nhận thức và hỗ trợ đầu vào sản xuất.
Sự đồng lòng hợp sức giữa các bên là nền tảng để An Giang vượt qua các thách thức biến đổi khí hậu, biến động giá đầu vào và nhu cầu thay đổi nhanh chóng của thị trường xuất khẩu.
Cụ thể, để ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt bất thường làm ảnh hưởng chu kỳ sinh sản và năng suất nuôi, tỉnh An Giang đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ nuôi thích ứng, chuyển sang các loài chịu mặn tốt, quy hoạch vùng nuôi dự phòng.
Một khó khăn nữa là giá nguyên liệu đầu vào biến động, thức ăn công nghiệp, chi phí logistics, giá con giống phụ thuộc thị trường. Để giải quyết vấn đề, tỉnh đang tìm cách mở rộng sản xuất con giống chất lượng cao, thúc đẩy hợp tác theo chuỗi để kiểm soát giá đầu vào.
Đối với thị trường xuất khẩu khắt khe, yêu cầu cao về chứng nhận môi trường, truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm từ EU, Mỹ, Nhật, tỉnh đưa ra biện pháp tăng tỷ lệ diện tích nuôi đạt ASC, BAP, GlobalGAP và tăng quy mô nhà máy chế biến đạt chuẩn HACCP, BRC.
Quản lý khai thác và bảo tồn, thúc đẩy kiểm soát khai thác bất hợp pháp, bảo vệ môi trường nước. Song song đó ngành nông nghiệp tỉnh đã cấp xác nhận nguồn gốc thủy sản, tăng kiểm tra giám sát tàu, siết chặt, xử phạt vi phạm hơn nữa để bảo vệ nguồn lợi lâu dài.
Theo ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh An Giang, định hướng giai đoạn 2026-2030, cần mở rộng quy mô xuất khẩu và đa dạng hóa sản phẩm. Năm 2025 sẽ phấn đấu đạt sản lượng khoảng 1,57 triệu tấn thủy sản, kim ngạch xuất khẩu trên 330 triệu USD sang hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Giai đoạn 2026-2030, mục tiêu đặt ra là nâng kim ngạch lên 600–700 triệu USD/năm, mở thêm thị trường mới như châu Mỹ Latin, Trung Đông, châu Phi.

Để làm được điều đó, ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh phải giữ vững diện tích nuôi đạt chứng nhận ASC, BAP, VietGAP không dưới 40% năm 2025, phấn đấu đạt 60-70% diện tích trong giai đoạn tiếp theo. Trai lấy ngọc, nghêu, cá biển giá trị cao cũng hướng đến tiêu chuẩn xanh để xuất khẩu sang thị trường khó tính.
Ngoài ra cần phát triển ngành tôm - lúa ASC quy mô lớn, đạt chứng nhận ASC. Cần nhân rộng mô hình do Minh Phú triển khai tại xã Đông Hòa (An Minh) (hiện đã đạt 824,6 ha) ra các vùng khác để phát triển bền vững song song giữa lúa và thủy sản.
Kết nối với các viện nghiên cứu, trường đại học để xây dựng chương trình đào tạo về giống thủy sản, quản lý vùng nuôi, chế biến sâu và tiếp thị xuất khẩu. Hỗ trợ kinh phí cho nghiên cứu đổi mới công nghệ, như ương giống tự động, theo dõi chỉ số môi trường nuôi qua IoT, hệ thống xử lý nước tuần hoàn. Đồng thời, ưu tiên phát triển hệ thống hậu cần thủy sản trong nội tỉnh và kết nối với hệ thống logistic quốc gia nhằm giảm chi phí vận chuyển, bảo quản và xuất khẩu.





Với lợi thế tự nhiên hiếm có, chiến lược phát triển bài bản và sự đồng hành của doanh nghiệp, nhà khoa học và chính quyền, An Giang đang tái cấu trúc toàn diện ngành thủy sản theo hướng hiện đại, xanh và bền vững.
Mục tiêu không chỉ dừng lại ở việc tăng trưởng sản lượng hay xuất khẩu, mà còn là khẳng định thương hiệu “cá tra An Giang” và thủy sản An Giang trên bản đồ quốc tế.
Đây sẽ là động lực quan trọng đưa An Giang trở thành trung tâm thủy sản hàng đầu vùng ĐBSCL, góp phần vào sự phát triển kinh tế nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn mới.