Sáng Quốc khánh, trên nhiều miền quê, lá cờ đỏ vẫn bay trên những bờ ruộng vừa gặt. Mọi người nhìn thấy ở đó một hình ảnh giản dị mà thiêng liêng: Tổ quốc soi bóng xuống mặt nước kênh mương, và nông dân góp phần nâng Tổ quốc qua từng mùa vụ.
Từ nạn đói năm 1945 đến công cuộc dựng xây hôm nay, nông nghiệp đã đi qua những khúc quanh lịch sử, để đất nước từ nghèo đói đứng vào nhóm các quốc gia mạnh về nông nghiệp, được bạn bè quốc tế xem là một kinh nghiệm tham khảo quý cho các nước đang phát triển.




Những năm dựng nước trong gian khó: Hạt lúa từng là lương thực cứu đói, là hậu phương nuôi quân. Ruộng đồng là “xưởng sản xuất” cho độc lập, tự do, hoà bình, thông nhất.
Thời hợp tác - sẻ chia: Tinh thần cộng đồng biến cánh đồng thành sức mạnh; dù còn giới hạn của cơ chế, bài học lớn là “đi một mình thì nhanh, đi cùng nhau thì xa”.
Đổi mới - giao quyền cho người làm ra của cải: Khi khoán sản xuất khơi thông, người nông dân trở lại là trung tâm. Từ thiếu ăn sang đủ ăn, từ đủ ăn sang dư bán, từ lúa gạo sang một nền nông nghiệp đa dạng với thủy sản, cây công nghiệp, trái cây, lâm sản.


Nông thôn mới - xây nền hạnh phúc: Đường, điện, trường, trạm; hạ tầng kinh tế - xã hội tạo cú hích cho “kinh tế nông thôn” chứ không chỉ “nông nghiệp thuần sản xuất”, vun đắp để nông thôn là di sản.
Tư duy mới - kinh tế nông nghiệp và hệ sinh thái ngành hàng: Từ bán nguyên liệu thô sang bán câu chuyện, bán tiêu chuẩn, bán dịch vụ trải nghiệm; từ “chuỗi” khép kín sang hệ sinh thái mở, nơi nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp - nhà khoa học - chính quyền - ngân hàng - nhà bán lẻ cùng liên kết.
Hành trình ấy nhắc một điều giản dị: khi trao niềm tin, mở không gian cho sáng tạo, minh bạch, nông nghiệp sẽ tự tìm cách lớn lên.


Tư duy trước công cụ: Đổi mới bắt đầu từ cách nghĩ. Không có tư duy hệ sinh thái, mọi đầu tư sẽ tản mạn. Đo lường để cải thiện: Không đo, không quản; không quản, không cải thiện. Chuẩn mực, dữ liệu, truy xuất là ngôn ngữ của thị trường. Liên kết để cộng hưởng: Mạnh về sản lượng chưa đủ; phải mạnh về tiêu chuẩn, thương hiệu và niềm tin. Tự cường đi kèm mở cửa: Chủ động hội nhập để học nhanh, rút ngắn khoảng cách, nâng cấp giá trị.



Nền nông nghiệp dữ liệu (Data-first agriculture): Mỗi thửa ruộng, ao nuôi, vườn cây có mã định danh số. Bản đồ đất - nước - mặn/ngọt - khí tượng với thời gian thực giúp quyết định gieo trồng, phòng trừ sâu bệnh theo không gian cực nhỏ. Nhật ký điện tử và truy xuất nguồn gốc là “hộ chiếu” để bước vào thị trường cao cấp.
Giá trị xanh và thị trường carbon: Quy trình phát thải thấp, tuần hoàn phụ phẩm, nông nghiệp sinh thái trở thành lợi thế cạnh tranh. Đo đạc - báo cáo - thẩm định (MRV) giúp nông dân, hợp tác xã tham gia tín chỉ carbon minh bạch, có thu nhập mới từ “dịch vụ hệ sinh thái”.


Hệ sinh thái ngành hàng và cụm liên kết: Tổ chức lại sản xuất theo “cánh đồng/hệ sinh thái chuẩn” gắn với doanh nghiệp dẫn dắt, hợp tác xã làm trục, nông dân là chủ thể. Hợp đồng mẫu công bằng, chia sẻ rủi ro - lợi ích; trung tâm logistics - sơ chế - bảo quản - phân phối được đặt gần vùng nguyên liệu.
Kinh tế trải nghiệm và văn hóa nông thôn - nông thôn là di sản: Mỗi sản phẩm gắn với câu chuyện vùng đất, lễ hội mùa vụ, du lịch học làm nông, ẩm thực bản địa. Không chỉ bán hạt, bán quả; bán trải nghiệm, bán ký ức - giá trị tăng lên cùng niềm tự hào.
Năng lực số cộng đồng - “bình dân học vụ số”: Cán bộ xã, hợp tác xã, nông dân được huấn luyện kỹ năng số nền tảng. Trợ lý số nông nghiệp tiếng Việt bản địa; học liệu mở; diễn đàn chia sẻ sai - sửa - hay - làm hằng mùa vụ. Chuyển đổi số, kỹ năng ứng dụng khoa học, công nghệ, không thể chỉ là những điểm sáng rời rạc, mà phải đến được hàng chục triệu nông dân, trở thành một trong những mục tiêu của tri thức hoá nông dân.



Dự báo - khuyến cáo canh tác vi mô: AI “đọc” thời tiết, thổ nhưỡng, lịch sử dịch hại để đề xuất lịch xuống giống, bón - tưới tối ưu. Chọn tạo giống thông minh: Rút ngắn vòng đời chọn tạo giống chịu mặn, hạn, sâu bệnh. Quản trị trang trại: Cảm biến IoT và AI giám sát ao, chuồng, nhà kính; cảnh báo sớm rủi ro. Thị trường và thương hiệu: AI hỗ trợ thiết kế bao bì, kể chuyện sản phẩm, phân phối đa kênh; thương mại điện tử xuyên biên giới. Đo lường phát thải: Công cụ số giúp hợp tác xã chứng minh giảm phát thải để hưởng cơ chế khuyến khích.


Ngày nay, tuần hoàn không còn là một khái niệm kỹ thuật. Tuần hoàn là tư duy phát triển bền vững. Nông nghiệp truyền thống theo tư duy tuyến tính: “sản xuất - tiêu dùng - thải bỏ”, phát triển dựa vào thâm dụng tài nguyên, gây ảnh hưởng môi trường. Nông nghiệp tuần hoàn theo mô hình “sản xuất - tiêu dùng - tái chế - tái sử dụng”, phần bỏ đi là tài nguyên đầu vào cho vòng tuần hoàn mới, tạo ra nhiều việc làm cho khu vực nông thôn, góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải. Kết hợp nông nghiệp truyền thống và nông nghiệp tuần hoàn. Kết hợp mô hình nông nghiệp tuần hoàn hẹp và mô hình nông nghiệp tuần hoàn rộng.



Nền nông nghiệp khó có thể tiến xa khi vẫn còn manh mún, nhỏ lẽ, tự phát. Thị trường đòi hỏi sản phẩm phải tuân thủ yêu cầu minh bạch, truy xuất nguồn gốc. Tư duy công nghiệp là sản xuất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình sản xuất. Sản xuất nông nghiệp phải “chuẩn hoá” từ giống và quy trình sản xuất, từ công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch, bảo quản, chế biến, từ trách nhiệm môi trường, trách nhiệm xã hội. Hợp tác xã nông nghiệp không là chuyện riêng của nông dân, mà là chuyện sống còn trong chuyển đổi nông nghiệp theo tư duy công nghiệp.
Nền nông nghiệp không thể tiếp tục đo lường sự phát triển bằng sản lượng, mà phải bằng tỷ lệ vùng nguyên liệu có mã số vùng trồng, vùng nuôi, mã số cơ sở đóng gói, số lượng doanh nghiệp nông nghiệp tuân thủ tiêu chí ESG (môi trường - xã hội - quản trị). Tư duy công nghiệp trong sản xuất nông nghiệp là chìa khoá nâng cao năng suất lao động cho hàng chục triệu nông dân. Tư duy công nghiệp biến sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tự phát thành chuỗi giá trị khép kín, chuẩn hoá chất lượng, chủ động thị trường, ứng dụng công nghệ, gắn kết nông dân - doanh nghiệp - khoa học.
Khi tổ chức nông nghiệp như một ngành kinh tế có chiến lược, nông sản mới cạnh tranh được, giá trị mới thật sự bền vững. Trên thế giới, tư duy công nghiệp trong ngành hoa Hà Lan, ngành kiwi New Zealand, ngành sâm Hàn Quốc, ngành sầu riêng Thái Lan. Ngành trồng nho ở nhiều đất nước nếu không sản xuất theo quy trình nghiêm nhặt theo mô hình “nông trại công nghiệp” sẽ không có những thương hiệu rượu vang nổi tiếng trên thế giới.



Thể chế thử nghiệm (sandbox): Cho phép thí điểm mô hình mới trong phạm vi, thời hạn rõ ràng. Kho dữ liệu nông nghiệp mở: Chuẩn hóa - liên thông - bảo mật; dữ liệu công ích để doanh nghiệp, trường viện sáng tạo. Hợp tác công - tư - cộng đồng: Nhà nước đặt mục tiêu, doanh nghiệp đầu tư, nông dân đồng hành; cùng chịu trách nhiệm về chất lượng và bền vững. Đo lường công khai: Bản đồ công khai về năng suất, giá, chất lượng, phát thải theo địa phương; cạnh tranh lành mạnh và học hỏi ngang hàng. Phát triển bao trùm: Không để ai bị bỏ lại phía sau - phụ nữ nông thôn, lao động trẻ, đồng bào vùng khó được ưu tiên tiếp cận hạ tầng số, tín dụng, đào tạo.



Đừng chỉ đo thắng thua bằng sản lượng; hãy đo bằng năng suất lao động, giá trị gia tăng, tiêu chuẩn, môi trường và hạnh phúc nông thôn.
Đừng dựng bức tường bê tông với thiên nhiên; hãy dựng kè sinh thái, sống thuận tự nhiên, tăng sức chống chịu.
Đừng làm thay nông dân; hãy tạo không gian để nông dân tự nâng cấp bằng tri thức và liên kết.
Đừng nghĩ chuyển đổi số là mua phần mềm; hãy bắt đầu từ thay đổi quy trình, thói quen, kỷ luật dữ liệu.



Từ hạt lúa ngày độc lập đến hệ sinh thái đổi mới hôm nay, nông nghiệp luôn là câu trả lời bền bỉ của dân tộc trước mọi thử thách. Chúng ta đã mạnh về sản xuất nông nghiệp; chặng đường tương lai sẽ mạnh hơn về chất lượng, chuẩn mực, xanh và hạnh phúc.
Quốc khánh không chỉ là ký ức, mà là lời hẹn: hẹn với đất đai được chăm chút hơn, với người nông dân được tôn vinh hơn, với nông thôn trở thành nơi đáng sống hơn. Hẹn rằng mỗi mùa vụ sẽ có thêm mùa tri thức mới, mỗi sản phẩm sẽ có thêm giá trị mới, và mỗi bàn tay nông dân sẽ có thêm sức mạnh số để đi tới thị trường rộng lớn. Khi hạt giống đổi mới được gieo trong lòng hệ sinh thái nông nghiệp bền vững, mùa gặt của một Việt Nam thịnh vượng - xanh - nhân văn sẽ đến sớm hơn chúng ta nghĩ.
Tinh thần cách mạng tháng 8 năm xưa đã đưa một quốc gia chưa có tên trên bản đồ thế giới, trở thành một đất nước có taafm vóc không chỉ trong khu vực mà còn trên thế giới. Nông nghiệp cũng vậy, 80 năm qua, từ một quốc gia nghèo đói, trở thành một quốc gia không chỉ tự chủ về an ninh lương thực, mà còn tham gia quan trọng vào hệ thống lương thực, thực phẩm toàn cầu.
Bước vào kỷ nguyên mới, cần thêm một cách mạng mới về tư duy đê tiếp tục khẳng định “Nông nghiệp là lợi thế quốc gia”. Đó là sản xuất nông nghệp theo quy trình và tư duy công nghiệp.
