Thôi đốt đồng, nhà nông thêm tiền, bớt ưu phiền sức khỏe

Sơn Trang - Thứ Ba, 26/11/2024 , 14:05 (GMT+7)

Nhiều nông dân trồng lúa đã từ bỏ thói quen đốt đồng sau khi được hướng dẫn cách xử lý rơm rạ mang lại hiệu quả kinh tế cao và cải thiện sức khỏe.

Nấm rơm được trồng từ rơm rạ. Ảnh: Sơn Trang.

Kiếm tiền triệu từ rơm rạ

Ông Trần Thanh Tuyền ở xã Vĩnh Thành, huyện Châu Thành, An Giang là một nông dân đã có hàng chục năm sản xuất lúa. Trước đây, cũng như các hộ trồng lúa khác, sau mỗi vụ thu hoạch, để xử lý rơm rạ trên đồng, ông Tuyền chỉ biết một cách duy nhất là gom lại thành từng đống rồi châm lửa đốt ngay tại chỗ. Mỗi lần đốt đồng như vậy, ông đều nhận thấy gây ra khói bụi rất nhiều, có thể ảnh hưởng tới sức khỏe và môi trường.

Khi được các cán bộ khuyến nông vận động tận dụng rơm rạ để trồng nấm rơm trong nhà kính thay vì đốt bỏ sẽ gây phát thải khí nhà kính, ô nhiễm môi trường, ông Tuyền đã nghe theo. Tận dụng đất trống của gia đình, ông xây dựng 6 nhà kính trồng nấm, mỗi nhà rộng 20m2. Từ đó, sau mỗi vụ thu hoạch lúa, ông thu gom toàn bộ rơm rạ, mang về trồng nấm. Cứ mỗi vụ trồng nấm, sau khi trừ chi phí, ở mỗi nhà trồng nấm, gia đình ông có thêm lợi nhuận 2 triệu đồng.

Cũng tại huyện Châu Thành, ông Nguyễn Thanh Hà đã tìm ra hướng đi mới từ nguồn rơm rạ mà trước đây hầu như chỉ biết đốt bỏ. Sau khi tham gia một lớp học khuyến nông, ông Hà thấy ấn tượng và quyết tâm thử sức với mô hình trồng nấm rơm trong nhà kính mà lớp học giới thiệu.

Thói quen đốt đồng đang được nhiều nông dân từ bỏ sau khi được hướng dẫn cách sử dụng rơm rạ để trồng nấm, ủ phân hữu cơ. Ảnh: Sơn Trang.

Từ nguồn vốn được địa phương hỗ trợ và vốn đối ứng của gia đình, ông Hà đầu tư xây dựng 8 nhà kính trồng nấm, mỗi nhà rộng 24m2. Toàn bộ rơm rạ sau thu hoạch lúa đều được gia đình ông thu gom lại để trồng nấm. Ông Hà cho biết, mỗi tháng, với mỗi nhà nấm, ông thu hoạch được khoảng 70kg nấm rơm. Nhờ sản xuất sạch, không sử dụng hóa chất, ông Hà bán được nấm với giá 100.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, mỗi nhà nấm đem lại cho gia đình ông lợi nhuận khoảng 3 triệu đồng. Tổng lợi nhuận mỗi tháng từ toàn bộ các nhà nấm lên đến 24 triệu đồng. Sau 2 năm, ông Hà đã thu hồi vốn đầu tư các nhà kính và đang tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất nấm rơm.

Từ việc dùng rơm rạ để trồng nấm, ông Hà còn phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn. Cụ thể, rơm mục và các phế phẩm từ trồng nấm được sử dụng để nuôi trùn quế, lấy phân hữu cơ bón cho rau màu như cải, cà và hoa màu. Cách làm này không chỉ gia tăng giá trị kinh tế mà còn giúp cải tạo đất và giảm tác động xấu đến môi trường.

Bà Phạm Thị Như, cán bộ Trạm Khuyến nông huyện Châu Thành, cho biết, trước đây, hầu hết nông dân trồng lúa trên địa bàn huyện gần như không xử lý rơm rạ mà thói quen chung là đốt. Nhận thấy những tác hại của việc đốt rơm rạ, từ năm 2018, các cán bộ khuyến nông Châu Thành đã bắt đầu vận động nông dân tiến hành xử lý rơm rạ thay vì đốt bỏ.

Hơn 2 năm qua, với sự hỗ trợ từ các chuyên gia nông nghiệp hướng tới sản xuất nông nghiệp bền vững, các mô hình xử lý rơm rạ đã được thực hiện một cách hiệu quả ở huyện Châu Thành. Cụ thể, Trạm Khuyến nông huyện Châu Thành đã triển khai thành công 3 mô hình kinh tế từ rơm rạ gồm dùng rơm rạ để trồng nấm; ủ phân hữu cơ từ rơm rạ; sử dụng rơm rạ làm thức ăn chăn nuôi.

Nhận thấy hiệu quả thiết thực của các mô hình tận dụng rơm rạ, huyện Châu Thành đã lên kế hoạch tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền cho nông dân hiểu về những tác hại do đốt rơm rạ cũng như lợi ích từ việc tận dụng, xử lý rơm rạ. Mỗi năm, huyện cấp vốn đối ứng cho từ 20 - 30 mô hình mới về sử dụng rơm rạ trồng nấm, ủ phân hữu cơ …

Sức khỏe tốt hơn khi xử lý rơm rạ

Các đại biểu tham dự Hội thảo "Đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác động của hóa chất nông nghiệp và đốt lộ thiên đối với biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học ở Việt Nam". Ảnh: Sơn Trang.

Nhằm góp phần giảm thiểu tình trạng đốt rơm rạ, phụ phẩm nông nghiệp ở Việt Nam, Dự án “Đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác động của hóa chất nông nghiệp và đốt lộ thiên đối với biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học ở Việt Nam” đã được được thiết kế và triển khai từ năm 2022 thông qua nỗ lực hợp tác giữa Liên minh Toàn cầu về Sức khỏe và Ô nhiễm (GAHP) với các bên liên quan và được tài trợ bởi Bộ Môi trường, Thực phẩm và Nông thôn Vương quốc Anh (DEFRA).

Trong khuôn khổ Dự án, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành (TP.HCM) đã thực hiện các mô hình xử lý rơm rạ sau thu hoạch bằng chế phẩm vi sinh tại Trà Vinh, Đồng Nai, Ninh Bình và Thanh Hóa.

PGS.TS Đinh Văn Phúc chia sẻ về sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý rơm rạ. Ảnh: Sơn Trang.

PGS.TS Đinh Văn Phúc - Viện Khoa học Xã hội Liên ngành, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, cho biết, các mô hình sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý rơm rạ cho thấy, việc sử dụng chế phẩm vi sinh trong nông nghiệp không chỉ giúp cải thiện đất bằng cách phân hủy chất hữu cơ mà còn có tác động tích cực đến sự phát triển của vi sinh vật hiếu khí trong đất. Điều này góp phần vào việc duy trì và cải thiện cấu trúc đất, đồng thời tăng cường khả năng sinh sản của đất, đặc biệt là sau quá trình canh tác.

Về hiệu quả kinh tế, mô hình sử dụng vi sinh cho lợi nhuận cao hơn khá nhiều so với ruộng đối chứng. Chẳng hạn, trong vụ hè thu ở Trà Vinh, lợi nhuận ở mô hình sử dụng chế phẩm vi sinh là hơn 22 triệu đồng, cao hơn 4 triệu đồng so với ruộng đối chứng.

Đặc biệt, sử dụng vi sinh xử lý rơm rạ mang lại lợi ích về sức khỏe cho nông dân. Theo PGS.TS Đinh Văn Phúc, trước đây, sau mỗi vụ thu hoạch lúa, nông dân thường đốt đồng dẫn tới khói, bụi mù trời, khiến cho người dây hay bị các vấn đề về đường hô hấp, bị ho rất nhiều. Sau khi sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý rơm rạ sau thu hoạch, nông dân không còn đốt đồng nữa. Nhờ vậy, các bệnh về đường hô hấp cũng giảm đáng kể. Ngoài ra, từ khi sử dụng vi sinh, nông dân không phải sử dụng nhiều thuốc diệt cỏ nên sức khỏe được đảm bảo hơn.

PGS.TS Đinh Văn Phúc chia sẻ: “Tôi thực sự rất vui khi triển khai dự án bởi mình được làm việc trực tiếp với người nông dân, hỏi han những khó khăn của bà con, hiểu được những chia sẻ rất thật của những người nông dân. Đa số người nông dân muốn làm nông nghiệp xanh nhưng ngại thay đổi, nên nhiệm vụ của những nhà khoa học là phải hướng dẫn sao để không thay đổi quá nhiều tập quán canh tác”.

Ông Petr Sharov, Điều phối viên GAHP. Ảnh: Sơn Trang.

Ông Petr Sharov, Điều phối viên GAHP

Thách thức lớn nhất mà chúng tôi đối mặt chính là sự thiếu hiểu biết về tác hại từ thói quen đốt rơm rạ, phụ phẩm nông nghiệp. Đó cũng chính là mục tiêu mà dự án của chúng tôi hướng đến để giải quyết. Chúng tôi nhận thức được rằng dự án chưa thể giải quyết hoàn toàn vấn đề, nhưng ít nhất chúng tôi đã có những tiến triển đầu tiên. Tôi tin rằng công việc này cần được tiếp tục, và điều quan trọng là phải tiếp tục làm việc với cộng đồng, giải thích và nâng cao nhận thức cho mọi người.

Sơn Trang
Tin khác
Tìm lời giải xử lý đất ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật
Tìm lời giải xử lý đất ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật

Việt Nam cần ban hành một kế hoạch mới để tiếp tục xử lý, cải tạo và phục hồi những khu vực đặc biệt ô nhiễm do lịch sử để lại.

Giúp nông dân 'hái tiền' từ cây nho
Giúp nông dân 'hái tiền' từ cây nho

Viện Nha Hố đã nghiên cứu, chọn tạo nhiều giống nho và các giải pháp canh tác tiên tiến giúp nông dân Nam Trung Bộ ‘hái tiền’ từ cây trồng này.

Những giống táo năng suất 50 - 60 tấn/ha, độ ngọt trên 11%
Những giống táo năng suất 50 - 60 tấn/ha, độ ngọt trên 11%

Viện Nha Hố đã nghiên cứu, chuyển giao ra sản xuất một số giống táo cho năng suất 50 - 60 tấn/ha, khối lượng quả có thể đạt tới 290g, độ ngọt trên 11%.

Công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp toàn cầu và định hướng cho Việt Nam
Công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp toàn cầu và định hướng cho Việt Nam

Công nghệ chỉnh sửa gen nằm trong nhóm công nghệ y - sinh học tiên tiến, đã được xếp vào danh mục ưu tiên cấp quốc gia theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Vi khuẩn hại lúa mùa và biện pháp khắc phục
Vi khuẩn hại lúa mùa và biện pháp khắc phục

Hiện nay, đa số diện tích lúa mùa sớm của bà con nông dân ở các xã, phường (Thành phố Hải Phòng) đang trong giai đoạn đứng cái và ít bị sâu. Tuy nhiên, một số ít diện tích đang có triệu chứng bị hại rất lạ.

4 ứng dụng giúp ngành lúa gạo thoát khỏi 'vòng xoáy' lạm dụng phân bón
4 ứng dụng giúp ngành lúa gạo thoát khỏi 'vòng xoáy' lạm dụng phân bón

Sử dụng phân bón cân đối, hiệu quả, giảm thiểu tác động môi trường và nâng cao chất lượng gạo đang trở thành yêu cầu cấp thiết.

Giải pháp then chốt thúc đẩy ngành hàng sầu riêng phát triển bền vững
Giải pháp then chốt thúc đẩy ngành hàng sầu riêng phát triển bền vững

Xây dựng chuỗi xuất khẩu ‘luồng xanh’, bộ tiêu chuẩn ngành hàng, kiểm soát vùng nguyên liệu an toàn là giải pháp then chốt để ngành hàng sầu riêng Đắk Lắk phát triển bền vững.

Dứa Cayenne cho quả ngọt sau 1 năm bén rễ ở Hà Tĩnh
Dứa Cayenne cho quả ngọt sau 1 năm bén rễ ở Hà Tĩnh

Sau 1 năm trồng thử nghiệm, những đồi dứa Cayenne ở xã Vũ Quang (Hà Tĩnh) đã cho lứa quả đầu tiên, quả to, mẫu mã đẹp, hứa hẹn năng suất cao.

Đổi mới hệ thống lương thực thực phẩm: Kế hoạch quốc gia, nội lực địa phương
Đổi mới hệ thống lương thực thực phẩm: Kế hoạch quốc gia, nội lực địa phương

Với mô hình chính quyền hai cấp sắp đi vào vận hành, kế hoạch chuyển đổi hệ thống LTTP quốc gia cần được cập nhật, phù hợp với yêu cầu phân cấp.

Sản xuất có trách nhiệm, đóng góp vào mục tiêu NDC 3.0
Sản xuất có trách nhiệm, đóng góp vào mục tiêu NDC 3.0

Giảm phát thải từ sản xuất nông nghiệp - thực phẩm là giải pháp tiềm năng để Việt Nam thực thi mục tiêu Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC 3.0).

Khi màu lúa thì thầm điều lành cho sức khỏe
Khi màu lúa thì thầm điều lành cho sức khỏe

Giữa cánh đồng tại Trung tâm Chuyển giao Công nghệ và Khuyến nông - CETDAE, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, những bông lúa đen trầm mặc như hồi ký của một hành trình 20 năm đi tìm bản sắc và sức khỏe cho hạt gạo Việt.

Nông dân khen giống lúa của Vinaseed 'chưa bao giờ thấy lúa đẹp thế này'
Nông dân khen giống lúa của Vinaseed 'chưa bao giờ thấy lúa đẹp thế này'

BẮC GIANG Diện tích trồng Dự Hương 8 và VNR88 của Vinaseed tại huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn lần lượt từ 30 – 40% so với giống đối chứng.