Sáng tạo chiếc chạt lọc của ông chủ nhiệm hợp tác xã nghề muối

Nguyễn Mạnh Dũng - Chủ Nhật, 10/03/2024 , 17:14 (GMT+7)

THANH HÓA Trong sản xuất muối, chạt lọc là công cụ lấy nước mặn từ cát trước khi đưa lên ô kết tinh. Chủ nhiệm một HTX nghề muối đã làm ra loại chạt lọc hoàn hảo.  

Đồng muối. Ảnh: Thanh Cường.

Làm muối phơi cát là nghề truyền thống đã có từ hàng ngàn đời nay ở những vùng ven biển. Diêm dân - những người sản xuất muối vốn đã nghèo, ít học, lại đã quá quen với những ô, nề, thống, chạt… để làm ra hạt muối thêm vị cho bữa ăn hàng ngày của hàng triệu con người nên chẳng có thể làm gì hơn đối với những công cụ sản xuất hàng ngày của mình.

Những dụng cụ đó thô sơ và quen thuộc đến nỗi có những vị quan chức nhà nước quản lý ngành muối đã cho rằng đối với việc sản xuất muối theo phương pháp phơi cát thì chẳng có gì để mà nghiên cứu, thay đổi cả. Trên thực tế cũng diễn ra đúng như vậy.

Chẳng có cơ quan nghiên cứu hay trường đại học, cao đẳng nào để tâm nghiên cứu cải tiến các thiết bị nhằm nâng cao năng suất và giảm nhẹ sức lao động cho diêm dân. Có chăng, sau bao nhiêu năm tháng, người ta mới bắt đầu sử dụng bạt để trải lên ô kết tinh thay cho việc làm ô, nề ngày xưa mà thôi. Còn các chạt lọc, lọc cát mặn lấy nước chạt đưa vào kết tinh muối thì vẫn cũ kỹ như xưa.

Tuy nhiên, có một người lại không nghĩ như vậy. Đó là ông Nguyễn Văn Hùng, Chủ nhiệm Hợp tác xã muối xã Hải Lộc (huyện Hậu Lộc) - một trong những hợp tác xã làm muối lớn nhất của tỉnh Thanh Hóa, hàng năm sản xuất ra trên 50% sản lượng muối của tỉnh này.

Cả đời làm nghề muối, hơn 10 năm làm chủ nhiệm hợp tác xã làm muối của xã, ông Hùng luôn trăn trở cải tiến công nghệ, thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất của diêm dân. Cuối cùng, ông đã thành công trong việc cải tiến chạt lọc cát mặn được mọi xã viên trong hợp tác xã sử dụng vì nó bền, không phải bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên, lại tốn ít vật liệu và cho năng suất cao hơn loại chạt cũ.

Cảnh đồng muối. Ảnh: Thanh Cường.

Trong sản xuất muối, chạt lọc là công cụ không thể thiếu. Đó là công cụ lọc lấy nước mặn từ cát trước khi đưa lên ô kết tinh. Từ trước đến nay, diêm dân vẫn sử dụng một trong 3 loại chạt lọc, đó là chạt lọc Nam Định (còn gọi là chạt nứa), chạt lọc Trúc Lĩnh và chạt lọc Cát Hải. Trong đó, chạt lọc Nam Định là cơ bản và phổ biến nhất. Đối với loại chạt lọc này, sau khi làm xong thành chạt, đáy chạt, người ta bắt đầu làm lòng chạt.

Lòng chạt của chạt lọc Nam Định gồm 2 phần là cầu chạt và nan chạt. Cầu chạt bao gồm những thanh tre hoặc bương có bản rộng 2cm xếp cách nhau khoảng 10 - 12cm (đối với thanh xếp dọc) và 20 - 30cm (đối với thanh xếp ngang chạt) ở trên gờ đỡ giữa thành chạt và đáy chạt, làm nhiệm vụ đỡ các nan chạt.

Nan chạt làm bằng nứa cây, được cắt ra thành từng đoạn dài đúng bằng chiều ngang đáy chạt. Dùng dao băm nứa theo chiều dài cây và gọt hết các đầu mặt, vách nối để sau này khi bẩy chạt (dùng sêu lấy cát bã ra khỏi chạt) không bị vấp, vừa làm hỏng sêu vừa làm hỏng nan chạt. Cần băm kỹ, dùng vồ đập theo vết băm để sau này lòng chạt không bị “bí” nước (nước khó chảy qua lớp lòng chạt).

Nan chạt phải được phơi khô cho da nứa hết màu xanh thì khi gài chạt mới bền, không thối. Gài chạt phải khéo tay, sắp nan nọ khít với nan kia trên cầu chạt. Nếu nứa làm nan chạt dày, cứng thì gài một lớp. Nếu dùng nứa mỏng có thể phải gài 2 lớp. Khi gài chú ý để mặt cật của nứa quay lên trên và ngọn đoạn nứa làm nan chạt cùng chiều với hướng người bẩy chạt. Làm như vậy để khi dỡ cát trong chạt ra không bị vấp sêu vào những đốt đầu mặt nứa, có thể làm vỡ sêu hoặc bật nan chạt ra.

Lòng chạt có tốt hay không, quá trình lọc chạt có thuận lợi hay không, hiệu suất lọc có cao hay không, phần lớn phụ thuộc vào chất lượng nứa và kỹ thuật làm nan chạt. Nứa dùng làm nan chạt cũng phải được chọn lựa kỹ càng.

Nan chạt làm bằng nứa già quá, khi gặp nước các khe hở sẽ khó khít lại, ngược lại khi nan chạt làm bằng nứa non, khi lọc sẽ co lại làm khe hở giữa các nan chạt rộng ra, làm nước mặn chảy nhanh qua cát mặn, ảnh hưởng đến hiệu suất lọc cát mặn. Trong quá trình sử dụng phải thường xuyên giữ ẩm cho nan chạt bằng cách duy trì một lượng cát trong lòng chạt, tránh nắng, mưa làm cong và hư hại nan chạt.

Chạt lọc cải tiến của ông Nguyễn Văn Hùng đã giúp năng suất, chất lượng muối tăng cao, giảm công lao động. Ảnh: Thanh Cường.

Chạt lọc Trúc Lĩnh là một kiểu chạt lọc cải tiến của chạt lọc Nam Định bằng cách thay cầu chạt bằng một đoạn gỗ hay nửa cây nứa có làm các rãnh răng cưa ở hai bên úp lên máng chạt, sau đó đổ lần lượt một lớp đá cục (đường kính 4cm), một lớp sỏi và một lớp cát to hạt. Cuối cùng, không dùng nan chạt mà gài lên trên những thanh tre, nứa theo chiều ngang của chạt lọc, thanh nọ cách thanh kia 15cm để khi bẩy chạt không xúc phải lớp cát, sỏi làm lòng chạt. Chạt lọc Trúc Lĩnh có ưu điểm tốn ít vật liệu, nhất là nứa làm nan chạt, vốn không có sẵn ở các vùng làm muối ven biển, thi công lại nhanh hơn mà hiệu suất lọc cũng có phần cao hơn chạt lọc Nam Định.

Từ nhiều đời nay, diêm dân của Hải Lộc nói riêng và Hậu Lộc (Thanh Hóa) nói chung vẫn sử dụng loại chạt lọc Nam Định. Tuy nhiên, do ngày càng hiếm loại nứa làm nan chạt đúng với yêu cầu nên diêm dân thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn trong duy trì, thay thế chạt lọc do hay bị vấp sêu trong quá trình bẩy chạt; nan chạt bị vỡ, không có để thay thế ngay; hiệu suất lọc cũng như chi phí trong quá trình làm muối bị ảnh hưởng nhiều, năng suất giảm.

Sau nhiều thời gian trăn trở, suy tư với nghề làm muối, với trách nhiệm của người đứng đầu hợp tác xã, Chủ nhiệm Nguyễn Văn Hùng đã quyết định cải tiến chạt lọc trên đồng muối quê hương mình.

Lao động nghề muối. Ảnh: Thanh Cường.

Khi làm chạt lọc, sau khi đã làm xong cầu lọc, ông Hùng đã thay thế việc gài nan chạt bằng việc trải lên đó một lớp lưới nilon rồi đổ một lớp cát to dày chừng 3 - 5cm lên trên, cuối cùng là gài các thanh tre, bương có bản rộng 2 - 2,5cm, cách nhau 7 - 10cm theo chiều ngang của chạt lọc để khi bẩy chạt không xúc đi lớp cát to bên dưới, đồng thời lại không bị vấp sêu hoặc làm gẫy nan chạt như loại chạt lọc cũ…

Vấn đề quan trọng là phải chọn được loại lưới nilon có độ dày và mắt lưới thích hợp mới cho ra hiệu suất lọc và chất lượng nước chạt như ý muốn. Loại chạt lọc này không phải dùng nứa làm nan chạt như chạt lọc kiểu Nam Định, không phải sử dụng đá cục, sỏi… như chạt lọc Trúc Lĩnh mà lại tốn ít công làm hơn, trong khi hiệu suất lọc rất cao, nước chạt có độ mặn như ý muốn và trong hơn so với lọc bằng loại chạt cũ rất nhiều.

Có thể nói, chạt lọc qua cải tiến của ông Nguyễn Văn Hùng vừa mang đặc điểm của chạt lọc Nam định, vừa có ưu điểm của chạt lọc Trúc Lĩnh nhưng tốn ít chi phí nhân công, vật liệu hơn, cũng như ít phải bảo dưỡng, thay thế như các loại chạt lọc đã có.

Qua hơn 2 năm thực hiện, loại chạt lọc của ông Hùng đã chứng tỏ được ưu thế: Hiệu suất lọc khá cao, nước chạt trong hơn, tốt hơn, giúp nâng cao năng suất, chất lượng muối. Nghề làm muối có thêm một thiết bị, công cụ đem lại lợi ích không nhỏ cho người sản xuất.

Nguyễn Mạnh Dũng
Tin khác
Tìm lời giải xử lý đất ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật
Tìm lời giải xử lý đất ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật

Việt Nam cần ban hành một kế hoạch mới để tiếp tục xử lý, cải tạo và phục hồi những khu vực đặc biệt ô nhiễm do lịch sử để lại.

Giúp nông dân 'hái tiền' từ cây nho
Giúp nông dân 'hái tiền' từ cây nho

Viện Nha Hố đã nghiên cứu, chọn tạo nhiều giống nho và các giải pháp canh tác tiên tiến giúp nông dân Nam Trung Bộ ‘hái tiền’ từ cây trồng này.

Những giống táo năng suất 50 - 60 tấn/ha, độ ngọt trên 11%
Những giống táo năng suất 50 - 60 tấn/ha, độ ngọt trên 11%

Viện Nha Hố đã nghiên cứu, chuyển giao ra sản xuất một số giống táo cho năng suất 50 - 60 tấn/ha, khối lượng quả có thể đạt tới 290g, độ ngọt trên 11%.

Công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp toàn cầu và định hướng cho Việt Nam
Công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp toàn cầu và định hướng cho Việt Nam

Công nghệ chỉnh sửa gen nằm trong nhóm công nghệ y - sinh học tiên tiến, đã được xếp vào danh mục ưu tiên cấp quốc gia theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Vi khuẩn hại lúa mùa và biện pháp khắc phục
Vi khuẩn hại lúa mùa và biện pháp khắc phục

Hiện nay, đa số diện tích lúa mùa sớm của bà con nông dân ở các xã, phường (Thành phố Hải Phòng) đang trong giai đoạn đứng cái và ít bị sâu. Tuy nhiên, một số ít diện tích đang có triệu chứng bị hại rất lạ.

4 ứng dụng giúp ngành lúa gạo thoát khỏi 'vòng xoáy' lạm dụng phân bón
4 ứng dụng giúp ngành lúa gạo thoát khỏi 'vòng xoáy' lạm dụng phân bón

Sử dụng phân bón cân đối, hiệu quả, giảm thiểu tác động môi trường và nâng cao chất lượng gạo đang trở thành yêu cầu cấp thiết.

Giải pháp then chốt thúc đẩy ngành hàng sầu riêng phát triển bền vững
Giải pháp then chốt thúc đẩy ngành hàng sầu riêng phát triển bền vững

Xây dựng chuỗi xuất khẩu ‘luồng xanh’, bộ tiêu chuẩn ngành hàng, kiểm soát vùng nguyên liệu an toàn là giải pháp then chốt để ngành hàng sầu riêng Đắk Lắk phát triển bền vững.

Dứa Cayenne cho quả ngọt sau 1 năm bén rễ ở Hà Tĩnh
Dứa Cayenne cho quả ngọt sau 1 năm bén rễ ở Hà Tĩnh

Sau 1 năm trồng thử nghiệm, những đồi dứa Cayenne ở xã Vũ Quang (Hà Tĩnh) đã cho lứa quả đầu tiên, quả to, mẫu mã đẹp, hứa hẹn năng suất cao.

Đổi mới hệ thống lương thực thực phẩm: Kế hoạch quốc gia, nội lực địa phương
Đổi mới hệ thống lương thực thực phẩm: Kế hoạch quốc gia, nội lực địa phương

Với mô hình chính quyền hai cấp sắp đi vào vận hành, kế hoạch chuyển đổi hệ thống LTTP quốc gia cần được cập nhật, phù hợp với yêu cầu phân cấp.

Sản xuất có trách nhiệm, đóng góp vào mục tiêu NDC 3.0
Sản xuất có trách nhiệm, đóng góp vào mục tiêu NDC 3.0

Giảm phát thải từ sản xuất nông nghiệp - thực phẩm là giải pháp tiềm năng để Việt Nam thực thi mục tiêu Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC 3.0).

Khi màu lúa thì thầm điều lành cho sức khỏe
Khi màu lúa thì thầm điều lành cho sức khỏe

Giữa cánh đồng tại Trung tâm Chuyển giao Công nghệ và Khuyến nông - CETDAE, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, những bông lúa đen trầm mặc như hồi ký của một hành trình 20 năm đi tìm bản sắc và sức khỏe cho hạt gạo Việt.

Nông dân khen giống lúa của Vinaseed 'chưa bao giờ thấy lúa đẹp thế này'
Nông dân khen giống lúa của Vinaseed 'chưa bao giờ thấy lúa đẹp thế này'

BẮC GIANG Diện tích trồng Dự Hương 8 và VNR88 của Vinaseed tại huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn lần lượt từ 30 – 40% so với giống đối chứng.