Trước yêu cầu cấp thiết về hiện đại hóa quản lý tài nguyên nước, Đảng ủy Cục Quản lý tài nguyên nước đã khẳng định vai trò lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong ứng dụng khoa học – công nghệ và chuyển đổi số, cụ thể hóa chủ trương, đường lối lớn của Đảng, nhất là Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Vận hành hồ chứa thông minh, chủ động ứng phó thiên tai và hạn hán
Ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước cho biết, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng ủy, từ năm 2015 Cục đã xây dựng Hệ thống thông tin dữ liệu hồ chứa (https://quanly.dwrm.gov.vn/hochua), tích hợp dữ liệu vận hành của hơn 134 hồ thuộc 11 lưu vực sông lớn trên cả nước.
Hệ thống này là công cụ quan trọng giúp Cục cung cấp bản tin hiện trạng vận hành hồ chứa theo mùa; hướng dẫn, đôn đốc chủ hồ tuân thủ quy trình liên hồ; tổng hợp số liệu phục vụ quản lý nhà nước; theo dõi mực nước theo giờ để kịp thời phát hiện nguy cơ thiếu nước hoặc lũ, từ đó điều tiết linh hoạt phục vụ sinh hoạt, sản xuất và thủy điện.

Hệ thống thông tin dữ liệu vận hành hồ chứa đã hỗ trợ Cục Quản lý tài nguyên nước triển khai hiệu quả. Ảnh: Minh Hoàng.
Các dữ liệu cập nhật là căn cứ để Cục phân tích, đánh giá việc tuân thủ quy trình, đồng thời chủ động chỉ đạo điều tiết cắt, giảm lũ và bảo đảm cấp nước hạ du, nhất là trong mùa cạn hoặc khi hạn hán xảy ra.
Song song giám sát trực tuyến, các đơn vị chuyên môn còn cung cấp dự báo, cảnh báo kịp thời cho địa phương và chủ hồ; tổ chức khảo sát thực địa, giải đáp vướng mắc; làm việc với các tỉnh để thống nhất phương án điều tiết nước, bảo đảm cấp đủ nước cho hạ du.
Xây dựng bản đồ hạn hán thời gian thực quản lý nguồn nước
Bên cạnh Hệ thống thông tin dữ liệu hồ chứa trực tuyến, dưới sự định hướng chiến lược của Đảng ủy, Cục Quản lý tài nguyên nước đã nghiên cứu, xây dựng bản đồ hạn hán và kịch bản nguồn nước thời gian thực trên nền tảng công nghệ hiện đại như Big Data, mô hình số, phân vùng hạn và bản đồ số.
Theo ông Nguyễn Minh Khuyến, hệ thống này sử dụng dữ liệu khí tượng (lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm), thủy văn (dòng chảy, mực nước sông, lượng nước hồ chứa), khai thác – nhu cầu sử dụng nước, và địa chất thủy văn (mực nước ngầm). Các dữ liệu được tích hợp, cập nhật, đồng bộ trên hệ thống quản lý tập trung và phân tích bằng thuật toán để xác định xu thế dòng chảy, biến động mực nước, chỉ số hạn hán (SPI, PDSI) và nguy cơ thiếu nước theo vùng, tiểu vùng.

Công nghệ xây dựng bản đồ hạn hán thời gian thực dựa trên công nghệ dự báo dựa trên mô hình tích hợp và dữ liệu lớn (Big data). Ảnh: Thanh Tâm.
Mô hình số cho phép dự báo mưa hạn mùa 6 tháng tới, phục vụ xây dựng các kịch bản nguồn nước. Sản phẩm được cập nhật hàng tháng, gồm: bản đồ/bản tin dự báo mưa hạn mùa; dự báo dòng chảy, lượng nước tích trữ hồ lớn; bản đồ hạn hán theo vùng, thời gian. Các vùng hạn được phân 3 cấp độ: nhẹ, trung bình, nghiêm trọng, hiển thị trực quan trên nền GIS, dễ tiếp cận cho cả chuyên gia và người dân.
Giám sát tài nguyên nước trên nền tảng IoT
Cũng theo Phó Cục trưởng Nguyễn Minh Khuyến, từ năm 2018, Đảng ủy Cục Quản lý tài nguyên nước đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Cục phối hợp với các đơn vị chuyên môn xây dựng Hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước, tích hợp công nghệ IoT và dữ liệu mở (https://iot.monre.gov.vn/tnn).

Mô hình giải pháp thu nhận, xử lý, giám sát và cảnh báo tài nguyên nước. Ảnh: Thanh Tâm.
Với các mục tiêu được đặt ra bao gồm: Theo dõi, giám sát trực tuyến các công trình khai thác, sử dụng nước mặt; công trình khai thác, sử dụng nước dưới đất do Bộ Nông nghiệp và Môi trường cấp phép; Thiết kế dựa trên các chuẩn mở để đảm bảo vấn đề kết nối, liên thông, tích hợp và chia sẻ thông tin, dữ liệu với các hệ thống của tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước; Kết nối, liên thông được với hệ thống hiện có về quan trắc lưu lượng, mực nước, chất lượng nước của các hồ chứa thủy lợi, thủy điện thuộc quy trình vận hành liên hồ chứa đã ban hành; Cập nhật tự động hoặc thủ công các thông tin (lưu lượng, mực nước, chất lượng nước và hình ảnh) vào hệ thống phục vụ giám sát, cảnh báo.
Tính đến tháng 8/2025, hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước đã cập nhật được khoảng 13.993 giấy phép tài nguyên nước các loại lên hệ thống, trong đó có 2.310 giấy phép cấp bộ và 11.683 giấy phép cấp tỉnh.
Cùng với đó, đã có 830 công trình khai thác tài nguyên nước thuộc đối tượng cấp phép của Bộ Nông nghiệp và Môi trường thực hiện đăng ký, kết nối truyền dữ liệu quan trắc về Hệ thống.
Hệ thống giám sát tài nguyên nước được xây dựng và đi vào vận hành đã mang lại những kết quả ban đầu, hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý tại Trung ương và các địa phương. Từ dữ liệu của các công trình kết nối, truyền về Hệ thống giám sát tài nguyên nước Trung ương đã góp phần đắc lực cho công tác quản lý điều hành, ra quyết định phục vụ công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Cục Quản lý tài nguyên nước.
Tăng cường vai trò định hướng, chỉ đạo xuyên suốt của cấp ủy Đảng
Với tầm nhìn chiến lược, Đảng ủy Cục Quản lý tài nguyên nước đã khẳng định vai trò hạt nhân chính trị, dẫn dắt toàn diện quá trình chuyển đổi số của ngành, coi đây là giải pháp quan trọng để ứng phó biến đổi khí hậu và hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững của Đảng. Thành tựu bước đầu đạt được là minh chứng rõ nét cho sự lãnh đạo sâu sát, thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ.
Dù vậy, công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực tài nguyên nước vẫn đối mặt nhiều thách thức: quản lý liên ngành, thiếu dữ liệu đồng bộ, hạn chế về nguồn lực, hạ tầng công nghệ và mức độ quan tâm chưa đồng đều giữa các địa phương.

Thứ trưởng Lê Minh Ngân tặng hoa, chúc mừng BCH Đảng ủy Cục Quản lý tài nguyên nước, nhiệm kỳ 2025-2030. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Trước yêu cầu mới, Đảng ủy Cục đề ra sáu định hướng trọng tâm: tăng cường lãnh đạo ứng dụng khoa học công nghệ và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia đồng bộ; hoàn thiện thể chế, chính sách và cơ chế chia sẻ thông tin; phát triển nguồn nhân lực số, nhất là thu hút cán bộ trẻ có chuyên môn sâu; đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, phát triển hạ tầng số và dữ liệu mở; nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát, đề cao trách nhiệm người đứng đầu; đồng thời nhân rộng các mô hình, giải pháp hiệu quả về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Những định hướng chiến lược mà Đảng ủy Cục Quản lý tài nguyên nước đề ra không chỉ giải quyết những thách thức trước mắt mà còn tạo nền tảng vững chắc cho quản trị tài nguyên nước trong dài hạn. Đây là minh chứng sinh động cho tầm nhìn xa, sự lãnh đạo toàn diện và bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng ủy trong việc dẫn dắt quá trình chuyển đổi số, biến công nghệ thành công cụ trọng yếu để bảo đảm an ninh nguồn nước, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu và hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững của Đảng. Với sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ, Cục Quản lý tài nguyên nước đang từng bước khẳng định vị thế tiên phong của mình trong quản trị tài nguyên nước thời đại số.