Khôi phục niềm tin ngành phân bón
Hẹn mãi mới gặp được bà Nguyễn Thị Kim Dung, Giám đốc Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Phân bón Quốc gia. Tôi đến khi guồng công việc buổi sáng trong cơ quan vừa tạm dịu. Bà Dung bảo: đang kỳ đi cơ sở, tranh thủ giờ trưa ngồi lại trao đổi luôn cho gọn.
Cánh cửa phòng giám đốc mở ra, không gian rộng rãi, ngăn nắp. Trên bàn, tập hồ sơ cộm lên một góc, ấm trà còn ấm tay, cạnh đó là cuốn sổ dày thít dây thun. Bà nhìn tôi, gật nhẹ, giọng tỉnh rụi: “Hồi tôi mới nhận nhiệm vụ, phòng làm việc của cả Trung tâm khi đó chỉ bằng 1/3 căn phòng này, còn phòng làm việc cá nhân thì chỉ bằng 1 góc bàn làm việc bây giờ. Bàn ghế tự sắm. Phòng thí nghiệm phải gửi nhờ”.
Bà Nguyễn Thị Kim Dung, Giám đốc Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Phân bón Quốc gia. Ảnh: Hùng Khang.
Câu chuyện mở bằng thời thanh niên của bà, khi bà còn là một giáo viên trẻ dạy kỹ thuật nông nghiệp ở tỉnh Yên Bái (cũ, nay là tỉnh Lào Cai). Từ trường phổ thông chuyển về trường trung cấp nông nghiệp, bà gom lớp, liên kết đào tạo, đưa chương trình đào tạo cử nhân khoa học, thạc sĩ về tận cấp xã, phường. Lý do đơn giản theo bà là muốn kinh tế địa phương khởi sắc, muốn an ninh lương thực vững, người làm quản lý gần dân phải học cho chắc tay.
Cô giáo trẻ khi ấy ôm nhiều khát vọng: cần một “bộ tiêu chuẩn” quản lý cho từng cấp nhỏ, để người đứng mũi chịu sào có tri thức, có phương pháp, có bản lĩnh dẫn dắt người dân.
Sau vài năm, bà sang làm chuyên viên, thư ký tại UBND tỉnh. Ngày đi cơ sở, tối về tổng hợp; quen dần nhịp kế hoạch, ngân sách, thẩm tra, kiểm tra. Đến một thời điểm, bà xin trở lại đúng chuyên ngành ở Cục Trồng trọt: “Làm quản lý cho vững cũng là để phục vụ chuyên môn cho sâu”, bà nói.
Mô hình trình diễn phân bón tại xã Cư Pơng, tỉnh Đắk Lắk. Ảnh: Hùng Khang.
Ban đầu, bà là chuyên viên văn phòng Cục, lo hành chính, văn thư, tiếp đến tổng hợp. Có năm lượng văn bản đi - đến của mảng trồng trọt lên đến năm, bảy nghìn. Đến khi làm Chánh Văn phòng, bà kiêm công tác tổ chức cán bộ, bắt đầu đặt câu hỏi về tư duy vận hành đơn vị sự nghiệp: nếu cứ dựa vào ngân sách, sở trường không phát huy, cánh tay nối dài của quản lý nhà nước khó mà chạm tới cơ chế thị trường.
Rồi bà "thai nghén" đề án tách khối từ năm 2008; năm 2012 bắt đầu được tổ chức thực thi tách Trung tâm Giống và Trung tâm Phân bón; năm 2015 mới chốt được cơ chế tự chủ, khi ấy bà vẫn là Chánh văn phòng Cục Trồng trọt. Quan điểm bà rất thẳng: đơn vị sự nghiệp muốn sống khỏe phải rèn tay nghề đến mức “không kém doanh nghiệp”, thậm chí phải hơn ở kỷ luật, khoa học.
Bối cảnh chung của ngành phân bón lúc bấy giờ như cuộn chỉ rối. Quản lý phân bón chia hai ngả, phân bón vô cơ do Bộ Công Thương quản lý, hữu cơ thì do Bộ Nông nghiệp và PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Cửa xã hội hóa mở toang, nhưng hàng rào pháp lý lại thấp; chế tài mỏng, quy trình lỏng, danh mục sản phẩm phình lên hàng nghìn chỉ trong vài quý. Phòng thí nghiệm thì chạy không kịp bước chân thị trường; tổ chức chứng nhận loạn nhịp, có nơi đứt hơi giữa đường.
Khi đó, bà đề xuất, kiến nghị kéo mảng phân bón vô cơ về một mối tại Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý, dựng lại trục quản lý cho thẳng, siết tiền kiểm, hậu kiểm cho chặt.
Bà Nguyễn Thị Kim Dung tham quan mô hình khảo kiểm nghiệm phân bón tại tỉnh Cao nguyên Trung Bộ. Ảnh: Hùng Khang.
Sau đó là quãng “việc khó gọi người khó”. Tổ chức trầy xước, nội bộ chao đảo, niềm tin sứt mẻ, nhân lực phân tán, cơ sở vật chất xuống cấp, nguồn lực tài chính hạn hẹp... Bà là đảng ủy viên; nhiệm vụ giao đến thì nhận. Có người bảo thôi, rút cho yên; bà lắc đầu bảo: “Khó khăn, gian truân là thử thách không tránh khỏi, nhưng tôi xác định làm việc khó. Đã về thì dựng lại cho bằng được Trung tâm”.
Bà nhớ như in ngày 15/11/2015, ngày bà đặt chân về Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Phân bón Quốc gia với vai trò Giám đốc. Căn phòng làm việc khi ấy bé bằng một góc phòng làm việc riêng hiện giờ; bàn ghế tự mua; phòng thí nghiệm gửi nhờ; hồ sơ xếp cao nhưng quy trình thì thấp. Bà cùng những cán bộ của Trung tâm bắt đầu hành trình nỗ lực kéo dần Trung tâm về đúng vị trí: cánh tay nối dài trong công tác quản lý nhà nước của Cục Bảo vệ thực vật - nay là Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, của Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong lĩnh vực phân bón và phát triển dịch vụ gắn với chức năng nhiệm vụ được giao theo chuỗi giá trị nông nghiệp xanh, sạch, tuần hoàn, giảm phát thải.
Bảng tên mới vừa treo, một loạt việc đã đợi sẵn, từ kiện toàn tổ chức, củng cố niềm tin, chuẩn hóa lại quy trình chuyên môn và xây dựng chiến lược phát triển theo hướng tự chủ gắn với tư duy doanh nghiệp. Bà giải thích sự lựa chọn gần như dứt khoát: đã mang danh “cánh tay nối dài” phục vụ quản lý nhà nước, vậy thì trách nhiệm trước hết thuộc về quy trình và dữ liệu. Muốn dữ liệu chuẩn, phòng thí nghiệm phải đủ lực. Muốn phòng thí nghiệm đủ lực, ngân sách không thể “bơm” mãi theo thói quen cũ. Từ đó, bà đi theo con đường tự chủ hoàn toàn về chi thường xuyên và chi đầu tư. Có giai đoạn, bà phải thế chấp tài sản cá nhân để trả lương và đào tạo.
Bà Nguyễn Thị Thị Kim Dung tại mô hình na xã Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Ảnh: Hùng Khang.
Việc đầu tiên là dựng lại khung chuyên môn: tiêu chuẩn ISO/IEC 17025:2017 trở thành nền móng, đi cùng ISO 9001:2015, ISO 17065:2013.... các tiêu chuẩn là công cụ quản lý. Các quy định và thông tư được chẻ nhỏ thành những quy trình thao tác chuẩn, gắn KPI cho từng vị trí việc làm.
Tôi nghe bà nói về những đêm soát bảng kiểm, về những buổi họp “lòng bàn tay” với nhóm kỹ thuật. Ở đó, bà yêu cầu kết quả phép thử phải đi cùng bối cảnh mẫu, lý do thử và điều kiện đo phải minh định. Con chữ sạch nước cản, câu bà hay dùng, nghe lạ tai mà dễ hiểu.
Việc thứ hai là xác lập “trái tim” của trung tâm: sức khỏe đất. Bà đề xuất mua bộ thiết bị vi sinh để phân lập và định danh chủng, sắm dàn phân tích dinh dưỡng hữu hiệu, lập quy trình đánh giá trước và sau vụ. Tôi hỏi vì sao lại chọn hướng này. Bà Dung bảo: cây trồng khỏe khi đất khỏe; đất khỏe khi hệ vi sinh và cấu trúc được chăm sóc; mọi tư vấn nên đi ra từ con số đọc được trong đất.
Hệ thống máy móc, trang thiết bị, nhân lực tại Trung tâm được đầu tư hiện đại. Ảnh: Hùng Khang.
“Trọng tài kỹ thuật” và người dẫn đường nông sản
Tư duy giản đơn mà bền vững ấy đã được mang xuống những cánh đồng. Còn nhớ có lần cùng bà về Hợp tác xã Nông nghiệp Nhân Lý ở xã Xuân Lãng, tỉnh Phú Thọ. Trên thửa ruộng mới lật ải, bà Lê Thị Hương, Giám đốc hợp tác xã bốc nắm đất đưa lên mũi, cười bảo: “Đất giờ tơi như bông, cây bén rễ nhanh lắm. Từ ngày được các cán bộ Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Phân bón Quốc gia hướng dẫn, chúng tôi mới hiểu, đất cũng có sức khỏe riêng của nó. Giữ cho đất khỏe, là giữ cho cả mùa màng bội thu”.
Bà Nguyễn Thị Kim Dung cùng các cán bộ Công ty Cổ phần Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao tham quan mô hình khảo kiểm nghiệm tại hợp tác xã Nhân Lý, tỉnh Phú Thọ. Ảnh: Hùng Khang.
Hay trong chuyến công tác theo đoàn vào Cư Pơng (Đắk Lắk). Người trồng cây ở đây từng bón phân theo quán tính, lá xanh đậm nhưng bộ rễ thiếu dưỡng, đất nặng dần. Khi mô hình của Trung tâm được triển khai, bà Dung cầm hũ mẫu đất, giải thích về pH, CEC, hữu cơ; kỹ sư ghi chép; nông dân chụm đầu nhìn tờ “sổ sức khỏe đất” in từ máy. Từng bước, họ tập đo pH nhanh, tập ghi lại chế độ bón, tập lại phương pháp tưới. Nói nhiều nghe khô miệng; làm lại thấy xuôi tay.
Cách vận hành ở đây giống một vòng tròn bốn nhịp gồm Đọc đất: lấy mẫu chuẩn, phân tích đầy đủ các chỉ tiêu quan trọng, dựng “ảnh chân dung” của ruộng vườn theo từng vụ; Đặt công thức: tư vấn doanh nghiệp phát triển dòng phân bón đúng đất - đúng cây - đúng vùng, ưu tiên hữu cơ, sinh học, vi sinh; Trình diễn và huấn luyện: đưa quy trình “bón đúng loại, đúng liều, đúng lúc, đúng cách” vào tay nông dân, tổ chức nhóm chia sẻ trong hợp tác xã; Đo lại và phản hồi: sau mùa, quay về phòng lab, so sánh trước - sau, điều chỉnh khuyến cáo, gửi kết quả cho doanh nghiệp và địa phương.
Ông Hồ Biên, một nông dân trồng sầu riêng kéo tôi lại bảo: “Tưởng bón nhiều thì tốt. Giờ theo công thức, đỡ tiền mà cây vẫn khỏe, quả vẫn được giá”. Câu nói điềm nhiên, lại đậm ý. Tiền vật tư bớt đi, tiền bán không hụt, rủi ro cũng bớt. Giá trị thặng dư hiện lên từ những việc nhỏ: ít lần bón phân, ít ngày công, ít hoang mang khi mưa nắng thất thường.
Bà Nguyễn Thị KIm Dung tại mô hình trình diễn phân bón tại xã Cư Pơng, tỉnh Đắk Lắk. Ảnh: Hùng Khang.
Ở Cư Pơng, nông dân giờ đã biết cách tự kiểm tra độ pH đất bằng bộ test nhanh, biết phối hợp luân canh cây trồng để cân bằng dinh dưỡng. Những lớp tập huấn, những buổi trao đổi trực tiếp giữa vị Giám đốc trung tâm và nông dân dần hình thành cộng đồng học tập trong sản xuất, nơi người nông dân chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi dữ liệu đất, tự điều chỉnh cách canh tác. Nông nghiệp xanh, bền vững, khái niệm từng xa vời, giờ đã trở thành thực tế trên những vườn sầu riêng.
Trên mỗi vùng đất in dấu chân của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Phân bón Quốc gia, giờ đây không chỉ đổi thay trong màu xanh của đất, mà còn trong nhận thức của người nông dân, khi họ hiểu rằng: đất có khỏe thì cây mới khỏe, mùa màng mới bội thu.
Tôi hỏi bà Dung về những “ca” đặc thù để kiểm chứng cách làm. Bà kể nhanh: lúa chất lượng cao ở miền Tây, rau, hoa ở dải vùng cao miền núi phía Bắc, cây ăn quả ở miền Đông Nam Bộ… Mỗi nơi chọn một sản phẩm mũi nhọn để làm mẫu. Số lượng mô hình đã gần 200, trải ra một bản đồ dài từ Bắc vào Nam. Doanh nghiệp tham gia có nơi điều chỉnh công thức theo khuyến cáo, có nơi đầu tư lại dây chuyền, có nơi xây bộ hồ sơ kỹ thuật gọn để đi làm thương hiệu. Địa phương nhận mô hình, dần dần đưa vào chương trình khuyến nông. Người nông dân tham gia trước tiên vì mùa vụ, sau đó vì thói quen mới dễ giữ, cuối cùng vì thấy yên tâm.
Bà Nguyễn Thị Kim Dung (phải), Giám đốc Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Phân bón Quốc gia, cùng nông dân kiểm tra bộ rễ, lá non trên ruộng rau mô hình, từ phòng lab ra đồng, quy trình và dữ liệu sạch. Ảnh: Hùng Khang.
Vai trò của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Phân bón Quốc gia vì thế hiện rõ. Khi nói về chất lượng, họ dùng ngôn ngữ chỉ tiêu và phép thử như một “trọng tài kỹ thuật”. Lúc đưa sản phẩm ra thị trường, họ lại hóa “người dẫn đường” với bộ hồ sơ rõ ràng từ quy trình canh tác, truy xuất, kiểm nghiệm định kỳ, biên bản lấy mẫu.
Biểu mẫu nộp - trả gọn gàng, người nhận tư vấn không phải chờ quá lâu, các cuộc hẹn thực địa ít khi trễ. Đội kỹ thuật giữ thói quen gọi lại khi thấy một chi tiết chưa ổn. Dữ liệu từ mô hình được lưu đều, cập nhật theo vụ. Tôi xem một bản tổng hợp: pH nâng lên sát ngưỡng tối ưu, hữu cơ tăng 0,3–0,4%, CEC cải thiện, chi phí phân bón giảm so với nền đối chứng, năng suất và chất lượng ổn định. Số liệu lặng lẽ, nhưng trong đó có nhịp thở của từng thửa đất.
Tôi nhận ra, việc đưa phòng lab ra đồng tạo nên những sự tự tin. Tự tin của nông dân khi có “sổ sức khỏe đất” đem ra bàn chuyện với thương lái. Tự tin của doanh nghiệp khi hiểu vì sao đổi tỷ lệ dinh dưỡng lại hợp lý cho vùng đất này. Tự tin của cán bộ kỹ thuật khi bước vào lớp tập huấn với bộ dữ liệu đã cập nhật. Những sự tự tin đó góp phần kéo lại cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa thói quen và khoa học.
Những cán bộ phòng lab của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Phân bón Quốc gia. Ảnh: Hùng Khang.
Khẳng định vị thế trong nông nghiệp xanh
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, yêu cầu giảm phát thải và trong đó quan trọng nhất là nâng cao sức khỏe cộng đồng phù hợp chung với xu hướng thế giới, Trung tâm Khảo kiểm nghiệm phân bón Quốc gia chủ động định hướng lại vai trò liên kết giữa 4 Nhà: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp - Nhà nông. Ngoài vai trò phục vụ công tác tiền kiểm - hậu kiểm, Trung tâm còn hướng dẫn, tư vấn, đồng hành cùng doanh nghiệp và địa phương để phát triển sản xuất theo hướng xanh, sạch, bền vững.
Bên cạnh đó, xây dựng các quy trình kỹ thuật, các giải pháp canh tác trên chuỗi giá trị xanh - sạch - số - nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao - hữu cơ - tuần hoàn giảm phát thải cây trồng chủ lực tại các địa phương....
Tập thể Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Phân bón Quốc gia. Ảnh: Hùng Khang.
Bà Dung nhìn vai trò của Trung tâm theo hai chiều song hành. Ở cửa ngõ chất lượng, Trung tâm giữ kỷ luật chuyên môn, làm người gác cổng cho chuẩn mực và minh bạch. Trên cánh đồng, Trung tâm làm bạn đường của doanh nghiệp và nông dân, chuyển hóa kết quả phép thử thành quy trình, thành hồ sơ kỹ thuật, thành lợi ích cụ thể.
Yếu tố cốt lõi để một đơn vị khảo - kiểm nghiệm trở thành mắt xích của kinh tế nông nghiệp. Theo bà Dung, nó nằm ở chỗ hiểu đất đến mức đọc được “chân dung” của từng thửa; hiểu cây đến mức biết nó cần gì ở từng vụ; hiểu doanh nghiệp đến mức gợi được công thức hợp lý với từng vùng cụ thể; hiểu nông dân đến mức làm cho quy trình thành thói quen. Khi Trung tâm đứng đúng vị trí ấy, doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, nông dân nâng sinh kế, địa phương thực hiện được chủ trương, còn Trung tâm khẳng định vai trò cánh tay nối dài của Cục, cũng như của Bộ.
Thông qua hoạt động khảo - kiểm nghiệm, triển khai các mô hình, tập huấn và tư vấn kỹ thuật, Trung tâm đã giúp nông dân tại các địa điểm triển khai chuyển đổi từ tư duy “dùng nhiều phân để đạt năng suất cao” sang “dùng đúng, dùng đủ, hiệu quả và bền vững”. Tăng cường sử dụng phân bón sinh học, hữu cơ, vi sinh đã giúp năng suất ổn định, chất lượng nông sản nâng cao, đất đai được cải thiện, chi phí sản xuất giảm, và môi trường được bảo vệ. Đây chính là minh chứng cho sự lan tỏa của tri thức khoa học mà Trung tâm đã kiên trì chuyển giao trong suốt nhiều năm.
Mô hình trình diễn các sản phẩm phân bón của Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao trên cây hồ tiêu theo chuỗi giá trị năm 2025. Ảnh: Hùng Khang.
Cuối cuộc trò chuyện, bà Dung nhắc đến dấu ấn 80 năm của ngành Nông nghiệp và Môi trường. Niềm tự hào lớn nhất của Trung tâm, theo Giám đốc Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Phân bón Quốc gia, không phải là những con số tăng trưởng, mà chính là việc Trung tâm từ đơn vị được bao cấp đã chuyển sang tự chủ tài chính loại 1 - 100% chi thường xuyên và chi đầu tư. Trung tâm đã góp phần đặt nền móng và đồng hành xuyên suốt trong quá trình hình thành, phát triển của ngành phân bón Việt Nam, từ chỗ manh mún, phụ thuộc vào nhập khẩu, đến nay đã có hàng trăm doanh nghiệp sản xuất trong nước, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, xanh và sạch.
“Chúng tôi luôn cảm thấy hạnh phúc với công việc khảo kiểm nghiệm của mình - Chúng tôi hạnh phúc với bổn phận kiểm chứng bảo đảm chất lượng phân bón cho doanh nghiệp và người dân. Đó là hành trình không có điểm dừng, không có vạch đích và không có chỗ cho sự thỏa mãn. Bởi, chất lượng, sự an toàn của các sản phẩm phân bón góp phần quan trong vào việc nâng cao chất lượng và giá trị nông sản, góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước cũng như khẳng định vị thế vững chắc của thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế xứng đáng với tên gọi Trung tâm Khảo kiểm nghiệm phân bón Quốc gia và sứ mệnh ươm mầm hạt giống tương lai”, bà Nguyễn Thị Kim Dung chia sẻ.
Từ lúc chỉ có hơn 10 cán bộ nhân viên, hiện tại Trung tâm Khảo kiểm nghiệm phân bón Quốc gia đã có trên 60 cán bộ công chức, viên chức và người lao động, có trên 100 cộng tác viên và các chuyên gia kỹ thuật ở các tỉnh, thành trên cả nước. Tại Hà Nội với 01 Trung tâm khảo kiểm nghiệm có 05 phòng chức năng, 02 trạm khảo kiểm nghiệm là trạm khảo kiểm nghiệm phân bón Tây Nguyên và Trạm khảo kiểm nghiệm phân bón Miền Nam.

















