Khái niệm “Canh tác thông minh” là một khái niệm mới, lần đầu được nêu ra trong tài liệu “Cẩm nang sản xuất lúa thông minh, hiệu quả và giảm phát thải khí nhà kính” do Nhà xuất bản Nông nghiệp phát hành năm 2015 với sự tài trợ của Dự án ICMP - GIZ, và sau đó được Công ty CP Phân bón Bình Điền triển khai trong thực tiễn trong Chương trình “Canh tác lúa thông minh tại Đồng bằng sông Cửu Long” từ năm 2017.
Gần đây, sản xuất thông minh được cho là sản phẩm của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vốn lần đầu tiên được nêu ra tại “Hội chợ Công nghệ Hannover” ở Cộng hòa liên bang Đức năm 2011. Vậy xu hướng sản xuất thông minh trong nông nghiệp như thế nào?

Công ty CP Phân bón Bình Điền hiện đang triển khai 15 mô hình trồng thuần và trồng xen với sầu riêng, hồ tiêu... tại 5 tỉnh Tây Nguyên (cũ) nhằm nghiên cứu tác động của hệ thống trồng xen đối với cây cà phê. Ảnh: Văn Bộ.
Hiện tại, chưa có định nghĩa nào chính thức về sản xuất thông minh và càng chưa có khái niệm cũng như định nghĩa về sản xuất nông nghiệp thông minh. Một số định nghĩa về sản xuất thông minh chủ yếu tập trung cho lĩnh vực công nghiệp, tự động hóa và xoay quanh ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT).
Ví dụ, Walace và Roddick (2013) cho rằng “Sản xuất thông minh là ứng dụng chuyên sâu CNTT về dữ liệu ở cấp độ doanh nghiệp cho phép các hoạt động sản xuất được thực hiện thông minh, hiệu quả và linh hoạt”; hay Liên minh lãnh đạo sản xuất thông minh cho rằng “Sản xuất thông minh là khả năng giải quyết các vấn đề hiện tại và tương lai thông qua hạ tầng mở cho phép các giải pháp kinh doanh được thực hiện…
Trong Nông nghiệp, hiện nay mới chỉ có khái niệm “Nông nghiệp thông minh với khí hậu” (CSA) do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO) đề xuất năm 2014. CSA được định nghĩa là phương thức sản xuất nông nghiệp có khả năng ứng phó (cả giảm thiểu và thích ứng) với tác động tiêu cực của Biến đổi khí hậu (BĐKH) để ổn định an ninh lương thực (ANLT) và phát triển bền vững.
CSA dựa trên 3 trụ cột chính, đó là: Tăng trưởng bền vững về năng suất và thu nhập của người sản xuất; thích ứng với sự thay đổi của khí hậu; và giảm thiểu (hoặc loại trừ) phát thải khí nhà kính (Andrea Cattaneo, 2014).
Như vậy, 3 trụ cột trên có thể tóm tắt thành 2 mục tiêu là: năng suất (an ninh lương thực); thích ứng và giảm thiểu tác động của BĐKH (bao gồm cả cân bằng cacbon cũng như giảm phát thải khí nhà kính).
Tuy nhiên, sản xuất thông minh không hẳn chỉ với BĐKH mà còn cần thông minh với nhiều yếu tố khác, đảm bảo phương thức sản xuất tối ưu nhất cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Nền nông nghiệp của mỗi quốc gia đều trải qua việc phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.

Chương trình canh tác cà phê thông minh sẽ không hạn chế ở các nội dung đặt ra ban đầu mà luôn được điều chỉnh theo thực tiễn sản xuất cũng như nhu cầu của người sản xuất nhằm đáp ứng các yêu cầu về sự bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và thị trường. Ảnh: Văn Bộ.
Tại Việt Nam, sản xuất thông minh lần đầu tiên được nêu ra chính thức trong Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với mục tiêu “Đến năm 2045, Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, có năng suất lao động cao, có đủ năng lực làm chủ và áp dụng công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, môi trường…”.
Vậy sản xuất cà phê thông minh là gì, bao gồm những hợp phần nào? Liên quan đến rất nhiều yếu tố trong suốt chuỗi sản xuất, chế biến và thương mại, trong đó đặc biệt quan trọng là: Thông minh với thị trường: Sản xuất cái mà thị trường cần về khối lượng, chủng loại, chất lượng sản phẩm và thời điểm cung ứng).
Canh tác thông minh, khai thác được lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, thích ứng với khí hậu biến đổi và phù hợp với năng lực đầu tư, công nghệ của người nông dân và bảo quản, chế biến gia tăng giá trị. Trong bài viết tới chúng tôi thông tin chi tiết về nội dung “Canh tác cà phê thông minh”. (Còn nữa...).