Khoai sọ nương Trạm Tấu: Tri thức bản địa đồng hành với khoa học kỹ thuật

Với trọng tâm là sự tương tác giữa các loài thực vật, động vật, con người và môi trường, lấy cảm hứng từ hệ sinh thái tự nhiên, các chuyên gia của ICRAF đã thực hành nông nghiệp sinh thái bằng cách kết hợp tri thức bản địa với khoa học kỹ thuật.

Dựa trên nền tảng này, Dự án “Nông nghiệp sinh thái tạo cảnh quan bền vững cho người nghèo vùng núi phía Bắc” (Dự án A4P) do Tổ chức Bánh mỳ cho Thế giới tài trợ, mà ICRAF đang triển khai, hỗ trợ một nghiên cứu bảo tồn nguồn gen cây khoai sọ nương tại huyện Trạm Tấu (cũ), tỉnh Yên Bái với sự giúp sức của khoa học dựa trên tri thức truyền thống của người H’Mông.

Ts Nguyễn Mai Phương, nguyên cán bộ nghiên cứu của ICRAF khẳng định, khoa học đóng vai trò then chốt trong bảo tồn giống cây trồng, đảm bảo an ninh lương thực trước biến đổi khí hậu và suy thoái tài nguyên. Và việc nghiên cứu khoa học giúp xác định, lưu giữ và phục hồi nguồn gen quý, bảo vệ đa dạng sinh học và duy trì giống bản địa.

Với khoai sọ nương Trạm Tấu, TS. Phương nói khoa học sẽ hỗ trợ chọn lọc, bảo tồn giống chất lượng cao và tối ưu hóa quy trình canh tác.

"Kết hợp nghiên cứu khoa học với tri thức bản địa giúp duy trì những đặc tính quý như hương vị đặc trưng, giá trị dinh dưỡng và khả năng thích nghi. Những nỗ lực này không chỉ bảo vệ nguồn gen mà còn tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng địa phương", TS. Phương nhấn mạnh.

Liên quan vấn đề chia sẻ tri thức, theo TS. Phương, đồng sáng tạo và chia sẻ tri thức là yếu tố cốt lõi của nông nghiệp sinh thái, giúp kết nối tri thức bản địa với khoa học kỹ thuật để phát triển hệ thống canh tác bền vững. Tuy nhiên, chuyên gia này cũng lưu ý cần phân biệt giữa tri thức bản địa và tập quán truyền thống để tối ưu hóa quá trình này.

Cụ thể, tri thức bản địa là những hiểu biết được tích lũy qua nhiều thế hệ, giúp cộng đồng thích nghi với điều kiện địa phương, gắn với môi trường sinh thái và văn hóa của họ.

Trong khi đó, tập quán truyền thống là những phương thức canh tác được duy trì theo thời gian, nhưng có thể không còn phù hợp. Ví dụ, đốt nương làm rẫy từng hữu ích nhưng nay có thể làm mất đa dạng sinh học và tăng phát thải khí nhà kính.

Việc kết hợp tri thức bản địa với khoa học – như chọn lọc giống nguyên chủng, điều chỉnh quy trình luân canh theo dinh dưỡng đất, bón phân hợp lý, trồng xen các cây họ đậu làm tăng dinh dưỡng đất – không chỉ giúp duy trì giá trị truyền thống mà còn nâng cao năng suất, giảm thiểu tác động môi trường và tăng khả năng thích ứng với điều kiện thời tiết cực đoan.

Đồng sáng tạo không chỉ giúp nông dân tiếp cận các giải pháp khoa học phù hợp với điều kiện địa phương, mà còn giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về thực tế sản xuất, từ đó điều chỉnh công nghệ và quy trình canh tác theo cách tôn trọng tri thức bản địa.

"Theo cách tiếp cận 13 nguyên tắc nông nghiệp sinh thái, sự kết hợp giữa tri thức truyền thống, tri thức bản địa và khoa học kỹ thuật là chìa khóa để xây dựng một nền nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, và cải thiện hệ sinh thái, đồng thời duy trì bản sắc văn hóa địa phương", TS. Nguyễn Mai Phương nhấn mạnh thêm.

Với cây khoai sọ ở Trạm Tấu, tri thức truyền thống của người H’Mông có vai trò quan trọng trong việc lưu giữ, sử dụng nguồn gen cây khoai sọ nương phục vụ đời sống và phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, với xu hướng phát triển sản xuất hàng hóa như hiện nay, một số kỹ thuật truyền thống của người H’Mông đã không còn phù hợp, cần được cải tiến như: Chọn củ giống cho vụ sau, cách sử dụng phân bón, phòng trừ sâu, bệnh hại và chọn thời gian trồng, thu hoạch nhằm cho hiệu quả kinh tế cao.

Dự án A4P đã và đang hỗ trợ cộng đồng người H’Mông tại huyện Trạm Tấu cũ (nay địa bàn Dự án thuộc hai xã Hạnh Phúc và Phình Hồ) thông qua nghiên cứu khoa học nhằm hướng tới việc chọn lọc giống khoai sọ nương, tạo được quần thể khoai sọ nương thuần và đồng nhất; lựa chọn được kích thước củ giống trồng phù hợp.

Bên cạnh đó, việc nghiên cứu cải tiến một số biện pháp kỹ thuật canh tác (thời vụ trồng tập trung, mật độ và liều lượng phân bón hợp lý, thời điểm thu hoạch...) để canh tác đạt năng suất cao, chất lượng tốt và cho hiệu quả kinh tế cao cũng là vấn đề cần sự hỗ trợ của khoa học để cây khoai sọ nương tại  Trạm Tấu có thể phát triển bền vững hơn, gắn với bảo tồn tại chỗ.

Là đơn vị tham gia vào dự án A4P tại Trạm Tấu, TS. Hoàng Thị Nga, Phó trưởng phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế, Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam – Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chia sẻ, lý do đầu tiên để tham gia là vì mục tiêu của dự án A4P tập trung vào việc xóa đói giảm nghèo cho bà con dân tộc thiểu số. Thứ hai là dự án sẽ tăng sinh kế cho bà con thông qua cách tiếp cận nông nghiệp sinh thái.

"Đó là những lý do chính mà nhóm nghiên cứu muốn đóng góp một phần hiểu biết của mình trong canh tác nông nghiệp, đặc biệt là canh tác cây khoai sọ nương Trạm Tấu để có thể giúp bà con trong sản xuất, nhằm ổn định sinh kế người dân địa phương", TS. Nga chia sẻ.

Về khó khăn, đại diện Trung tâm Tài nguyên thực vật nói, việc canh tác cây khoai sọ nương Trạm Tấu ở những nơi có độ cao trên 1000 m so với mực nước biển khiến việc đi lại, tiếp cận các nương khoai trở thành khó khăn cho cả bà con và nhóm nghiên cứu.

Tuy nhiên, khó khăn về địa hình này không thể cản bước nhóm nghiên cứu. Thậm chí, từ những khó khăn đó mà nhóm nghiên cứu càng mong muốn đóng góp, hỗ trợ bà con trong quá trình sản xuất khoai sọ.

Theo bà Nga, để canh tác cây khoai sọ nương Trạm Tấu bền vững thì việc nghiên cứu, phục tráng giống đúng với giống gốc là yêu cầu cấp thiết hàng đầu.

Giống phục tráng là giống được nhân từ cây trội nhằm duy trì, khôi phục các tính trạng ban đầu của giống gốc, khắc phục hiện tượng giống thoái hoá giảm năng suất chất lượng.

Điều này sẽ quyết định chất lượng của khoai sọ nương Trạm Tấu. Sau giống là đến giai đoạn thử nghiệm các biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp với điều kiện sản xuất tại địa phương.

Chia sẻ thêm về nội dung dự án, TS. Nga nói, ông bà ta có câu “khoai đất lạ mạ đất quen”, trong canh tác cây trồng nói chung đặc biệt là khoai sọ nương Trạm Tấu, bà con sẽ luân canh cây trồng để đạt năng suất tốt hơn.

"Nói cách khác, sau khi trồng cây khoai sọ nương Trạm Tấu trên một đơn vị diện tích liên tục, thường sau 3 năm bà con sẽ đổi chân đất để đạt được hiệu quả cao nhất", chuyên gia của Trung tâm Tài nguyên thực vật cho biết.

Trong quá trình bảo quản củ giống, bà con cũng vận dụng kiến thức bản địa bằng cách bảo quản củ giống trực tiếp ở trên nương, giảm thiểu công vận chuyển và giữ chất lượng củ giống ổn định.

"Đó là những lưu ý về canh tác truyền thống rất đáng quý, cần được duy trì và phát triển bên cạnh việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới để canh tác cây khoai sọ nương Trạm Tấu hiệu quả nhất", TS. Hoàng Thị Nga khẳng định thêm.

Theo bà, chọn đúng giống là bước tiên quyết trong nghiên cứu, phục tráng giống khoai sọ Trạm Tấu, từ đó giúp bà con canh bền vững hơn. Canh tác bền vững hơn sẽ có hiệu quả kinh tế tốt hơn, quá trình này sẽ được duy trì bằng cách áp dụng đúng tiến bộ khoa học kỹ thuật bên cạnh tri thức bản địa.

Ngoài giống và canh tác, TS. Nga cũng lưu ý về thời gian thu hoạch để tối ưu hàm lượng tinh bột, hàm lượng protein cũng như các chất béo trong củ khoai.

"Khi đó, khoai sọ nương Trạm Tấu sẽ có vị thế nhất định đối với người tiêu dùng, tạo động lực để phát triển sản xuất, bảo tồn giống và canh tác ngày càng bền vững hơn", nữ chuyên gia nhấn mạnh.

ICRAF hiện cùng với CIFOR duy trì một trong 11 Ngân hàng gen trong hệ thống ngân hàng gen của các trung tâm thuộc CGIAR với mục đích quản lý việc bảo tồn và sử dụng bền vững các nguồn gen cây trong hệ thống nông lâm kết hợp. ICRAF thu thập nguồn gen cây đa dạng từ các đối tác toàn cầu, phân tích đặc tính để xác định các đặc điểm riêng biệt và hữu ích, sau đó đảm bảo nguồn gen được bảo tồn được quản lý đúng cách, khả thi và sẵn có.

Ngân hàng gen của ICRAF hiện có 248 loài cây trong hệ thống nông lâm kết hợp. Trong số 7.020 mẫu giống này, đại diện cho 195 loài, được bảo tồn tại Ngân hàng gen hạt giống. Đồng thời 19.008 mẫu giống, bao gồm 82 loài cây trong hệ thống nông lâm kết hợp, được bảo tồn tại các Ngân hàng gen thực địa đặt tại 51 địa điểm trên 19 quốc gia từ châu Á tới châu Phi và châu Mỹ La-tinh. Tổng cộng 2.280 mẫu giống của 120 loài đã được lưu giữ bản sao tại Ngân hàng gen Viện Thực vật học Côn Minh ở Trung Quốc cũng như tại Ngân hàng hạt giống Thiên niên kỷ ở Vương quốc Anh. ICRAF đã lưu giữ 1.954 mẫu giống đại diện cho 197 loài cây trong hệ thống nông lâm kết hợp tại Kho Hạt giống Toàn cầu Svalbard ở Na Uy. Toàn bộ nguồn gen được bảo tồn đều được quản lý theo Tiêu chuẩn Ngân hàng Gen tùy chỉnh của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO).

Trong nỗ lực bảo tồn nguồn gen cây, ICRAF đã thực hiện các nghiên cứu về tuổi thọ và khả năng sống của hạt giống kết hợp với các Ngân hàng Gen CGIAR khác để nâng cao hiểu biết về công tác lưu trữ hạt giống. Điều này hỗ trợ việc phát triển các chiến lược bảo tồn và sử dụng nguồn gen một cách có hiểu biết. Thông qua các dự án nghiên cứu hợp tác và yêu cầu trực tiếp của người dùng, ICRAF cung cấp hạt giống cây trồng và các vật liệu nhân giống khác cho các nhà nghiên cứu và người trồng trọt. Trung bình, chúng tôi phân phối hơn 350 mẫu hạt giống mỗi năm của nhiều loài cây trong hệ thống nông lâm kết hợp khác nhau.

(link tới Ngân hàng Gen của ICRAF: https://treegenebank.cifor-icraf.org/)

Bên cạnh sản xuất và bảo tồn nguồn gen, việc phát triển chuỗi giá trị và thị trường cho sản phẩm khoai sọ nương Trạm Tấu cũng có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sản xuất ổn định và bền vững, cải thiện sinh kế cho bà con..

Theo TS. Trần Văn Hiệp, cán bộ phụ trách chuỗi giá trị và thị trường của ICRAF, việc phát triển chuỗi giá trị có ý nghĩa quan trọng đối với người nông dân sản xuất quy mô nhỏ, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Họ thường gặp hạn chế về vốn, kỹ thuật và khả năng tiếp cận thị trường.

Tham gia chuỗi giá trị giúp họ kết nối với các tác nhân trong hệ thống sản xuất – tiêu thụ, từ đó nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh và khả năng cạnh tranh

Liên kết trong chuỗi, bao gồm cả liên kết ngang giữa các hộ và liên kết dọc với cơ sở chế biến, kênh phân phối – giúp người dân huy động nguồn lực, tiếp cận dịch vụ đầu vào, kỹ thuật và thông tin thị trường hiệu quả hơn.

"Việc phát triển chuỗi giá trị không chỉ tạo thêm việc làm tại địa phương, mà còn nâng cao giá trị gia tăng cho từng khâu sản xuất, giúp sản phẩm địa phương xây dựng được thương hiệu và mở rộng thị trường tiêu thụ bền vững", ông Trần Văn Hiệp khẳng định.

Liên kết theo chuỗi là chiến lược của ngành nông nghiệp nhằm thay đổi thực trạng manh mún, nhỏ lẻ, tự phát của nền nông nghiệp nước ta. Do đó, hợp tác giữa những người sản xuất, liên kết giữa người sản xuất và doanh nghiệp theo một chuỗi ngành hàng là cần thiết.

Chỉ có liên kết theo chuỗi mới nâng cao được chất lượng nông sản và chuyển sản phẩm nông nghiệp thành một thương phẩm, đảm bảo yêu cầu chuẩn mực của thị trường, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan phát biểu trước Quốc hội năm 2023

Mặc dù khoai sọ nương tại Bản Mù  là đặc sản nhưng các hộ dân người H’Mông từng gặp nhiều khó khăn trong khâu tiêu thụ do bị thương lái ép giá và giá cả bấp bênh.

Trước đây, giá khoai sọ giao động mạnh từ 8.000 - 23.000 đồng/kg, khiến người dân không yên tâm sản xuất. Trước thực trạng đó, mô hình chuỗi giá trị khoai sọ được xây dựng nhằm nâng cao năng lực cho các tác nhân trong chuỗi.

Đồng thời kết nối sản phẩm khoai sọ với các thương lái và kênh phân phối tại các chợ đầu mối trong tỉnh Yên Bái (nay là tỉnh Lào Cai), cũng như mở rộng ra các thị trường ngoài tỉnh như Hà Nội, Quảng Ninh.

TS Hiệp chia sẻ, mô hình này gồm các hộ trồng khoai liên kết với Hợp tác xã Nông nghiệp và Du lịch Bản Mù để thu mua sản phẩm, sau đó phân phối đến các thị trường mục tiêu.

Nhờ sự liên kết này, giá khoai sọ được giữ ổn định ở mức trung bình 20.000 đồng/kg trong hai năm 2023–2024. Đồng bào dân tộc H'mong yên tâm sản xuất, mở rộng diện tích canh tác, từ đó cải thiện sinh kế và góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo tại địa phương.

Tọa lạc gần chân dãy Pú Luông thuộc dãy Hoàng Liên Sơn, Bản Mù có độ cao từ trên 700 m cho tới khoảng 1.500 m so với mực nước biển, địa hình chia cắt mạnh, mang tính chất khí hậu á nhiệt đới và ôn đới.

Bản Mù có độ ẩm cao, quanh năm mây mù, khí hậu ôn hòa, như được thiên nhiên ưu đãi phù hợp với cây chè Shan tuyết, khoai sọ nương và các cây ăn quả ôn đới như đào, mận, hồng và các loại dược liệu khác như cỏ nhung, thảo quả, lan kim tuyến.

Đây cũng là địa bàn triển khai dự án A4P của ICRAF, dự án tập trung hướng tới các yếu tố cơ bản của nông nghiệp sinh thái nhằm hỗ trợ người dân tại Bản Mù tiếp cận với nông nghiệp sinh thái, hướng đi được xem là tương lai của lương thực thực phẩm.

Theo TS. Trần Văn Hiệp, mục tiêu quan trọng của dự án là cải thiện sinh kế cho bà con. Trong quá trình đánh giá dự án, ICRAF thấy cây khoai sọ là một trong những cây giúp cải thiện sinh kế, thoát nghèo và thậm chí có thể làm giàu cho bà con.

Tuy nhiên, thời điểm đó, bà con vẫn canh tác khoai sọ theo kinh nghiệm, bộc lộ nhiều hạn chế, ví dụ như kỹ thuật trồng chưa tốt, kết nối thị trường chưa có, đặc biệt là liên kết giữa người dân và các thành phần trong chuỗi giá trị không có.

Dự án A4P đã hỗ trợ thành lập hợp tác xã để liên kết với hộ dân trong thu mua khoai sọ, tổ chức các khóa tập huấn nâng cao năng lực cho bà con để thâm canh đúng kỹ thuật, đảm bảo chất lượng, năng suất cho cây trồng.

Bên cạnh đó, các chuyên gia của ICRAF cũng nâng cao năng lực cho bà con thông qua tập huấn kỹ thuật, kinh doanh, thương mại điện tử để có thể tự kết nối thị trường thông qua các hệ thống sàn thương mại điện tử.

Những công việc ICRAF Việt Nam triển khai tại dự án A4P đều dựa trên các nguyên tắc, yếu tố cơ bản của nông nghiệp sinh thái.

Trong đó có nguyên tắc "Đa dạng kinh tế", giúp đa dạng hóa thu nhập tại trang trại, vườn nhà, để các hộ sản xuất nhỏ gia tăng khả năng độc lập tài chính, tăng giá trị sản phẩm...

Hay nguyên tắc "Cùng sáng tạo và chia sẻ tri thức", tăng cường việc cùng nhau tạo ra và chia sẻ kiến thức, bao gồm đổi mới khoa học và địa phương, đặc biệt là thông qua trao đổi giữa nông dân với nông dân, và nhiều nguyên tắc khác.

Ngoài ra, ICRAF Việt Nam với vai trò là đơn vị triển khai Dự án A4P đã chuyển giao các thiết bị, máy móc hỗ trợ chế biến và đóng gói vào ngày 25/1/2024 nhằm giúp đỡ HTX Nông nghiệp và Du lịch Bản Mù trong thời gian đầu thành lập.

Ngoài khoai sọ, ICRAF cũng hỗ trợ HTX tham gia Lễ hội Trà Shan tuyết Suối Giàng năm 2024, diễn ra từ ngày 27/4 - 1/05/2024. Tại lễ hội này, HTX đã giới thiệu những sản phẩm trà Shan tuyết đầu tiên do HTX sản xuất sau khi tham gia lớp tập huấn về thu hái và chế biến chè Shan tuyết do ICRAF Việt Nam triển khai trong khuôn khổ Dự án A4P.

Đây là một bước tiến của HTX khi trước đây, trà Shan tuyết trồng tại Bản Mù chủ yếu chỉ được sử dụng làm trà nguyên liệu để xuất khẩu, chưa mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân.

Với sự hỗ trợ của Dự án A4P trong đào tạo và hỗ trợ máy móc sản xuất, đóng gói, HTX đã phát triển được hai dòng sản phẩm chính bao gồm Trà xanh Shan tuyết và Hồng trà Shan tuyết để giới thiệu tại sự kiện.

Theo đánh giá từ các chuyên gia, sản phẩm của HTX tạo được ấn tượng về cả hương và vị, hứa hẹn sẽ có nhiều dư địa cho việc phát triển trong tương lai. Hiện nay, HTX với sự hỗ trợ của ICRAF đã phát triển hệ thống nhãn hiệu sản phẩm đối với trà Shan Tuyết.

Sau đó, trong tháng 5/2024, ICRAF Việt Nam phối hợp iViet Solution tổ chức khóa đào tạo về kỹ năng bán hàng và marketing sản phẩm trên các sàn thương mại điện tử cho cộng đồng người H'Mông tại Bản Mù.

Sự kiện này thu hút sự quan tâm và tham gia tích cực của hơn 30 nông dân, những người đang tìm cách đưa sản phẩm địa phương như trà Shan tuyết, khoai sọ nương và gạo nếp cẩm ra với thị trường rộng lớn hơn.

Khoá học đã cung cấp cho những người nông dân sản xuất nhỏ những kiến thức và kỹ năng cần thiết để tạo ra những bài viết quảng cáo sáng tạo, cách chụp ảnh sản phẩm hấp dẫn, và kỹ thuật tổ chức livestream hiệu quả, cùng với việc học hỏi những kinh nghiệm quý giá từ các nông dân đến từ Suối Giàng.

Link video về chuỗi giá trị chè Shan tuyết Bản Mù

https://www.youtube.com/watch?v=XTrD076AdBc&t=2s

Tùng Đinh – Bảo Thắng
Trọng Toàn
Tùng Đinh – Bảo Thắng