Đập dâng gần 900 năm tưới mát vùng đất khô nóng

Tỉnh Ninh Thuận trước đây (nay là tỉnh Khánh Hòa) là vùng đất đầy nắng gió, nơi thử thách sự kiên cường của con người. Trước sự khắc nghiệt của vùng đất vốn không được thiên nhiên ưu đãi, vào khoảng thế kỷ 13, vua Po Klong Garai của Vương quốc Champa đã cho xây dựng đập Nha Trinh, ông được xem là người đặt nền móng cho nền nông nghiệp ổn định tại vùng đất bán hoang mạc này.

Qua lời kể của ông Dương Tấn Ngọc, cán bộ thủy nông gắn bó với nghề hơn 40 năm - một người đồng bào dân tộc Chăm nay đã nghỉ hưu, xuất phát từ tầm nhìn xa trông rộng, vua Chăm thấy rằng đồng ruộng ở Thành Ý (thuộc phường Bảo An thời nay) mênh mông nhưng thiếu nước tưới.

Để giải quyết vấn đề nan giải này, vua Chăm đã huy động người dân xây đập Nha Trinh bằng cách xếp đá dựa trên một nền đá có sẵn trên dòng sông Dinh ngày nay. Đây là công trình được xây dựng thủ công nhưng đã thành công đưa nước tưới về một vùng rộng lớn, khởi nguồn cho một hệ thống thủy lợi phức tạp sau này.

Theo ông Ngọc, đập Nha Trinh được xây dựng trên sông Cái Phan Rang, chủ yếu bằng những viên đá vuông vắn xếp xen kẽ và chồng lên nhau, kết dính bằng chất kết dính tự nhiên, không có bê tông, sắt thép như ngày nay. Tuy nhiên, điều đáng kinh ngạc là công trình vẫn đứng vững trước mọi tác động của thời gian, thiên tai và sự biến đổi của môi trường.

Sở dĩ vua Chăm lựa chọn địa điểm sông Cái Phan Rang đi qua vùng đất Nha Hố để xây dựng đập Nha Trinh, bởi đoạn này có độ dốc không lớn, nước tương đối lặng hơn các quãng sông khác và điều quan trọng nhất là dưới dáy sông là nền đá vững chắc nên khi ngăn nước thì không phải đào móng. Điều này giúp con đập không phải đương đầu trực diện với dòng chảy xiết mỗi mùa lũ lớn, qua đó tuổi thọ của đập sẽ được gia tăng.

Không giống như những đập hiện đại có thể cao đến hàng chục mét, đập Nha Trinh khiêm tốn với chiều cao trung bình khoảng 3m, nhưng kéo dài hơn 300m, cao trình đỉnh đập ban đầu là 13,7m. Điều này cho phép kiểm soát lưu lượng nước một cách hợp lý, điều tiết nguồn nước phục vụ cho việc tưới tiêu mà không gây lũ lụt hạ lưu trong mùa mưa, đồng thời giữ nước phục vụ sản xuất trong mùa khô.

Suốt nhiều thế kỷ, đập Nha Trinh vẫn đứng vững, trở thành biểu tượng của sự kiên cường và tài năng của người Chăm. Vào khoảng năm 1889, khi người Pháp đến, họ đã nhận thấy giá trị của công trình này và quyết định gia cố thêm. Lúc đầu, họ thử chuyển vị trí tuyến đập lên thượng lưu cách vị trí đập cũ khoảng 50m nhưng chỉ sau một trận lũ lớn đã phá vỡ công trình. Rút kinh nghiệm, người Pháp đã đưa đập về lại vị trí cũ và tiếp tục gia cố bằng đá xếp. Đến khoảng những năm 1935 người Pháp đã thực hiện cải tạo, nâng cấp đập thành kết cấu đá xây và bê tông, phục vụ tưới cho 7.600ha.

Bước vào giai đoạn từ năm 1964-1967, sau khi xây dựng Nhà máy Thủy điện Đa Nhim đưa nguồn nước dồi dào từ cao nguyên Lâm Viên (tỉnh Lâm Đồng) vượt núi bằng đường ống thép để bổ sung nguồn nước cho sông Cái Phan Rang, người Nhật tiếp tục thực hiện kiên cố hóa đập Nha Trinh bằng đá xây và bê tông, cao trình đỉnh đập được nâng từ 13,7m lên 15,23m. Cải tạo mở rộng, nâng cấp kênh Nam và các công trình trên kênh Nam từ K5+900 đến K29+500 cuối kênh.

Đến năm 1979, Công ty Thủy nông Bắc Thuận Hải là tiền thân Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Ninh Thuận đã thực hiện sửa chữa, nâng đỉnh đập Nha Trinh lên cao trình 15,6m.

Hiện nay, đập Nha Trinh có tổng chiều dài tràn nước là 330m, chiều cao đập 5,3m, cao trình đỉnh đập 15,6m, đang cấp nước cho tuyến kênh Nam ở vai phải đập và kênh Bắc ở vai trái đập để phục vụ tưới cho khoảng 11.130ha đất sản xuất nông nghiệp, cấp nước thô cho các nhà máy nước sinh hoạt với công suất thiết kế khoảng 18.676 m3/ngày đêm.

Với tuổi đời gần 900 năm, đập Nha Trinh được xem là một trong những công trình thủy lợi lâu đời nhất còn tồn tại và phát huy tác dụng cho đến ngày nay. Đập Nha Trinh cũng không hoạt động độc lập, mà là điểm khởi đầu cho một hệ thống kênh tưới dày đặc và có quy mô lớn vào thời bấy giờ. Đây chính là phần tiếp theo của câu chuyện đầy kỳ diệu về tầm nhìn của vị vua Po Klong Garai.

Ông Phùng Đình Thanh, Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Ninh Thuận cho biết, hiện tư liệu về công trình thủy nông lâu đời này không còn nhiều, mà chỉ qua lưu truyền.

Truyền thuyết Chăm kể rằng, sau khi hoàn thành đập Nha Trinh, vua Po Klong Garai tiếp tục cho đào kênh tưới để cung cấp nước cho người dân sản xuất. Thời bấy giờ, công việc đào kênh hoàn toàn dựa vào sức người, không có máy móc, thiết bị hiện đại, vua Chăm đã huy động toàn bộ người dân cùng đào kênh dẫn nước.

Ban đầu, kênh Bắc được vua Chăm cho đào để dẫn nước tưới từ đập Nha Trinh cấp cho các vùng từ phường Đô Vinh, Bảo An, Thành Hải đến khu vực thuộc xã Ninh Hải, Thuận Bắc. Sau đó, vua Chăm tiếp tục huy động người dân để đào thêm hai con kênh mới: kênh Chàm và kênh Nam. Trong đó đoạn kênh chính Nam dài 4,2km (người dân hay gọi là kênh Chính Nam chung), bắt đầu từ thủy khẩu đập Nha Trinh đến điểm giao nhau giữa kênh Nam và kênh Chàm được cả đàn ông và phụ nữ Chăm thời bấy giờ cùng đào chung.

“Kể từ khúc này, dòng kênh chính Nam chia thành 2 ngả, trong đó kênh Nam được vua Chăm giao cho đàn ông đào, còn kênh Chàm giao cho phụ nữ đào, bởi dòng kênh này có chiều dài ngắn hơn, chỉ khoảng 6,2km. Vì vậy, người Chăm gọi kênh Chàm là “mương Cái” (tức mương do phụ nữ làm) và đến nay nhiều người cao tuổi ở địa phương vẫn chỉ biết đến cái tên này.

Điều thú vị là kênh Chàm có tới 108 khúc cua hình chữ S và địa hình tự nhiên trên dòng kênh này, nơi nước chảy tạo nên bên lở bên bồi đã giúp người xưa tận dụng các điểm S là nơi nước chảy mạnh nhất để mở các cửa cống điều tiết”, ông Phùng Đình Thanh kể.

Trong quá trình đào kênh, một câu chuyện dí dỏm đã xảy ra và được người dân truyền tới thời nay. Đó là, vào thời điểm này, do những người đàn ông mải trêu những người phụ nữ đào kênh Chàm nên ban ngày thì đào kênh do vua giao, ban đêm họ sang đào kênh giúp những người phụ nữ (bên nữ ban đêm nấu chè đãi những người đàn ông); do đó kênh Chàm hoàn thành trước, còn kênh Nam chỉ đào được khoảng 2km, đến đoạn gần sông Quao (xi phông 1 ngày nay) rồi bỏ dở.

Phải đến năm 1964 khi Nhật Bản bắt đầu xây dựng Nhà máy Thủy điện Đa Nhim và nâng cấp đập Nha Trinh thì mới tiến hành đào kênh Nam kéo dài đến cuối tuyến như hiện nay, trong đó có gia cố một số đoạn bằng đá xây, bê tông, làm mới các cống, các xi phông và các công trình bờ tràn để bảo vệ hệ thống kênh Nam.

Năm 2001, kênh Nam được kiên cố hóa từ đoạn K4+626 đến K20+880 và K21+280 đến K24+155 với tổng chiều dài 19.129m thông qua dự án Ngành cơ sở hạ tầng nông thôn. Đến năm 2012, kênh Nam tiếp tục được kiên cố hóa đoạn đầu từ K0+00, K4+626, đoạn giữa từ K20+880 đến K21+280 và đoạn cuối kênh K24+155 đến K29+050 với tổng chiều dài 9,921km, thông qua dự án Phát triển nông thôn tổng hợp các tỉnh miền Trung.

Ông Phùng Đình Thanh, Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Ninh Thuận cho biết, kênh Nam được người Nhật xây dựng năm 1964 rất bài bản, được tính toán rất kỹ lưỡng, các mặt cắt kênh, tiết diện cống lấy nước, cửa điều tiết, các xi phông, cầu bắc qua kênh, hệ thống tràn ra - tràn vào bảo vệ kênh đều tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ; tất cả đều được xây dựng kiên cố bằng đá, bê tông phù hợp với diện tích tưới thời điểm xây dựng và mở rộng sau này.

“Đoạn kênh L16 được làm cực kỳ kỹ lưỡng, mặt cắt hình thang, hai bên ốp đá đẹp mắt để bảo vệ kênh qua các mùa lũ hàng năm. Đặc biệt, đoạn qua thôn Hoài Trung được Nhật Bản xây nhiều cây cầu và công trình chuyển nước qua địa hình dốc đá. Hành lang bảo vệ kênh được thiết kế rộng 5m mỗi bên, thời điểm đó kênh Nam được coi là một công trình vĩ đại và hiện đại, được người Nhật tài trợ xây dựng, hoàn thành và đưa vào sử dụng vào năm 1966 cho tới nay vẫn phát huy hiệu quả rất tốt”, ông Phùng Đình Thanh cho hay.

Tính đến nay, 9 thế kỷ đã trôi qua nhưng các tuyến kênh này vẫn còn hoạt động, được người dân gìn giữ, cải tạo và sử dụng bền vững. Đồng thời, được bê tông hóa để thích ứng với nhu cầu hiện đại, song vẫn giữ nguyên tuyến trình và cấu trúc chính của kênh cổ trước đây.

Không chỉ là công trình thủy lợi đơn thuần, kênh Nam và kênh Chàm còn là biểu tượng của tinh thần cộng đồng, sự sáng tạo và tính bền vững trong cách người Chăm thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt quanh năm. Chính điều đó đã duy trì đời sống, nền văn hóa làm lúa nước đặc trưng của người Chăm. Công trình đập Nha Trinh dẫn thủy nhập điền từ thế kỷ thứ 13 đã đặt nền móng cho sự thay đổi ngoạn mục của vùng đất bán hoang mạc Ninh Thuận trong nhiều thế kỷ tiếp theo.

Từ khi đập Nha Trinh và hệ thống kênh cổ được hình thành, cuộc sống người dân Ninh Thuận bắt đầu chuyển mình. Từ một vùng bán hoang mạc khô cằn, phụ thuộc hoàn toàn vào nước trời, nhờ có nguồn nước ổn định nên sản xuất nông nghiệp và văn hóa Chăm đã phát triển rực rỡ.

Ngay từ thời cổ, các làng Chăm đã định cư quanh những khu vực có nước từ hai tuyến kênh. Các cánh đồng lúa nước lớn nhất tỉnh, nương rẫy đã dần hình thành, góp phần tạo nên một nền kinh tế nông nghiệp tự chủ và gắn bó chặt chẽ với môi trường sống.

Các địa phương được hưởng lợi nhiều nhất là Nhơn Sơn, Đô Vinh, Bảo An, Thành Hải, Xuân Hải, Phước Vinh, Phước Sơn, Phước Hữu, Phước Thái, Phước Thuận,… Không chỉ trồng lúa, nơi đây còn mở rộng sản xuất nho, táo, măng tây xanh, nha đam và phát triển chăn nuôi kết hợp.

 Nhiều vùng chuyên canh đã xuất khẩu sản phẩm sang thị trường quốc tế, tạo nguồn thu đáng kể cho địa phương. Ngoài cung cấp nước cho sản xuất và chăn nuôi, tuyến kênh Nam còn cung cấp cho các nhà máy nước sạch phục vụ sinh hoạt của người dân các địa phương phía Nam của tỉnh.

Sự hiện diện của các tuyến kênh Nam, kênh Bắc không chỉ mang lại lợi ích nông nghiệp mà còn gắn liền với văn hóa - lịch sử Chăm. Nhiều làng nghề truyền thống như gốm cổ Bàu Trúc, dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp, tháp Po Klong Garai… đều nằm ven các tuyến kênh mương này, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa nguồn nước - văn hóa - sinh kế của cư dân bản địa. Hệ thống kênh trở thành “mạch sống” không chỉ của kinh tế mà cả tinh thần cư dân địa phương.

Sau khi đập Nha Trinh cũng như hệ thống kênh dẫn được xây dựng hoàn chỉnh, đã cung cấp nước tưới cho gần 12.000ha đất nông nghiệp tại địa phương. Trong đó, kênh Bắc cung cấp nước tưới cho gần 5.000 ha; kênh chính Nam thuộc hệ thống thủy lợi Nha Trinh có chiều dài 29,5 km đã được kiên cố hóa toàn tuyến, lưu lượng lấy nước theo thiết kế 12,8 m3/s và hiện đang phục vụ cấp nước tưới cho 6.850ha đất sản xuất trên địa bàn các xã Phước Vinh, Phước Sơn, Phước Hữu, Phước Thái, Phước Thuận, đồng thời cấp nước thô cho các nhà máy nước sinh hoạt trên địa bàn công suất khoảng 9.328 m3/ngày đêm.

Theo ông Phùng Đình Thanh, Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Ninh Thuận, hiện nay hệ thống kênh Bắc, kênh Nam và kênh Chàm đã đầu tư gần như hoàn thiện và Công ty vận hành phục vụ sản xuất cho người dân không chỉ 2 vụ/năm mà đã nâng lên được 3 vụ/năm, đảm bảo đủ nước và liên thông các hồ, đập, kênh mương.

“Nhà nước đã đầu tư hồ Sông Cái với dung tích 219,8 triệu m3, tiếp tục cung cấp nước cho hệ thống Nha Trinh - Lâm Cấm trong mùa khô. Hiện nay, riêng vụ hè thu và cuối vụ đông xuân không còn xảy ra tình trạng thiếu nước, hạn hán như những năm trước nữa. Đồng thời công trình này còn cung cấp nước cho các khu nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh, cung cấp nước bằng đường ống có áp lực liên thông các hồ chứa như khu tưới hồ Phước Trung, hồ Phước Nhơn, hồ Bà Râu, hồ Sông Trâu, đặc biệt là cấp nước về hồ Ông Kinh là vùng đất cát thường xuyên không có nước phải đào ao trong hồ để tưới cho cây hành, cây tỏi và vùng nho đặc sản của Ninh Thuận”, ông Phùng Đình Thanh cho hay.

Ngày nay, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, hạn hán và sa mạc hóa đang ngày càng đe dọa vùng Duyên hải Nam Trung bộ, câu chuyện về đập Nha Trinh và hệ thống kênh cổ càng trở nên quý giá. Đó không chỉ là giá trị vật chất phục vụ sản xuất mà còn là bài học về cách sống hài hòa với thiên nhiên, về tầm nhìn dài hạn trong quy hoạch và phát triển bền vững kinh tế - xã hội, mà là tài năng, trí tuệ, trọng trách của người quản lý đất nước đối với người dân.

Đặc biệt, với xu hướng du lịch trải nghiệm và nông nghiệp bền vững hiện nay, các tuyến kênh cổ hoàn toàn có thể phát triển thành điểm du lịch sinh thái - văn hóa độc đáo, nơi du khách được hiểu rõ hơn về trí tuệ của người xưa trong khai thác nước và sống hài hòa với thiên nhiên khắc nghiệt.

Câu chuyện về đập Nha Trinh, kênh Nam và kênh Chàm đến nay vẫn được người dân lưu giữ và truyền lại cho thế hệ mai sau. Để tưởng nhớ và biết ơn vị vua Po Klong Garai vĩ đại, người dân đã xây tháp thờ cúng ông ở tháp Po Klong Garai mặt chính về hướng đông nằm trên ngọn đồi Trầu thuộc phường Đô Vinh, tỉnh Khánh Hòa. Đây là một quần thể gồm tháp Chính, tháp Lửa và tháp Cổng, nơi đây được xem là cụm tháp hùng vĩ và đẹp nhất trong những đền tháp của người Chăm còn tồn tại ở Việt Nam hiện nay và là điểm đến của du khách trong và ngoài nước khi đến thăm Ninh Thuận (tỉnh Khánh Hòa).

Tháp Chính là trung tâm của cụm tháp, cao hơn 20m, có một lối ra vào. Trong ngôi tháp Chính thờ vua Po Klong Garai với biểu tượng Mukha - Linga. Ông là người có công trạng to lớn trong việc xây dựng hệ thống dẫn thủy nhập điền phục vụ nông nghiệp và phát triển của cộng đồng người Chăm trong vùng.

Phương Chi – Mai Phương
Trọng Toàn
: Phương Chi
: Phương Chi