Thứ sáu 18/04/2025 - 16:48
Môi trường
Việt Nam sở hữu 'kho' điện gió ngoài khơi lên tới 1068 GW
Thứ Sáu 18/04/2025 - 16:33
Tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi toàn vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam lên tới 1068 GW, chủ yếu nằm vùng biển phía Nam.
- Petrovietnam: Chuyển dịch năng lượng trong sứ mệnh, tầm nhìn mới
- Nhiệt độ nóng hơn làm tăng nhu cầu về nhiên liệu hóa thạch
- Đánh giá tiềm năng kỹ thuật năng lượng gió ven biển và xa bờ của Việt Nam
- Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII phục vụ tăng trưởng kinh tế hai con số
Ngày 18/4, tại Hà Nội, Cục Khí tượng thủy văn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp cùng Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP Việt Nam), Đại sứ quán Na Uy tại Việt Nam tổ chức lễ công bố báo cáo tiềm năng kỹ thuật năng lượng gió ngoài khơi Việt Nam. Báo cáo cung cấp bức tranh toàn diện, cập nhật và có độ phân giải cao về tiềm năng tài nguyên gió biển của Việt Nam - một trong những quốc gia có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất khu vực.
Căn cứ đầu tư các dự án điện gió
Ông Hoàng Đức Cường, Phó Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn cho biết: Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay, đặc biệt là sau thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và thỏa thuận Net-Zero tại COP26, năng lượng tái tạo nói chung và năng lượng gió nói riêng được xem là một trong những giải pháp quan trọng nhất nhằm giảm biến đổi khí hậu toàn cầu. Chính phủ Việt Nam đã xác định mục tiêu năm 2030 tối thiểu 33% tổng sản lượng điện sẽ được phát từ các nguồn năng lượng tái tạo.

Ông Hoàng Đức Cường, Phó Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phát biểu tại sự kiện. Ảnh: Trung Nguyên.
Việt Nam là nước nằm trong vùng gió mùa châu Á mạnh và ổn định nên tiềm năng năng lượng gió được đánh giá là rất dồi dào. Nguồn năng lượng này sẽ đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện các cam kết của Việt Nam về biến đổi khí hậu, thúc đẩy nền kinh tế không các-bon. Tuy nhiên các thiên tai có nguồn gốc từ biển cũng hoạt động hết sức phức tạp, có thể ảnh hưởng không nhỏ tới tính ổn định của việc vận hành và khai thác nguồn năng năng lượng tái tạo này.
“Chính vì vậy, việc đánh giá khách quan tiềm năng năng lượng gió biển, có xét đến tác động, rủi ro từ các hiện tượng thời tiết cực đoan trở nên cần thiết và có ý nghĩa” – ông Cường nhấn mạnh.

Ông Patrick Haverman, Phó Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Trung Nguyên.
Theo ông Patrick Haverman, Phó Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, báo cáo cung cấp bộ Atlat gió ngoài khơi chi tiết nhất từ trước đến nay, với dữ liệu mô phỏng với chuỗi thời gian dài tới 30 năm và có độ phân giải cao. Đây là công cụ thiết thực để hỗ trợ quy hoạch không gian biển, phát triển ngành điện gió và thu hút đầu tư, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam vừa phê duyệt Quy hoạch không gian biển, Quy hoạch tổng thể ven biển và Quy hoạch điện VIII điều chỉnh.
Năng lượng gió tập trung ở các tỉnh phía Nam
Thông tin cụ thể về báo cáo, ông Mai Văn Khiêm, Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia cho biết: Báo cáo “Đánh giá chi tiết tiềm năng tài nguyên gió các vùng ven biển (đến 6 hải lý) và các khu vực xa bờ ở Việt Nam” đã đưa ra một bộ dữ liệu chuẩn hóa, đồng bộ về khí hậu gió biển Việt Nam trong 30 năm (1991–2020), phục vụ việc xác định tiềm năng kỹ thuật phát triển điện gió ngoài khơi tại các vùng biển ven bờ (tới 6 hải lý) và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Trên cơ sở đó, báo cáo kiến nghị các giải pháp nhằm hỗ trợ quy hoạch, đầu tư và phát triển bền vững ngành năng lượng tái tạo.
So sánh với kết quả trong “Báo cáo đánh giá tiềm năng năng bức xạ, gió và sóng tại Việt Nam” của Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố tháng 9/2022, kết quả nghiên cứu có sự tương đồng về phân bố không gian và thời gian tiềm năng năng lượng gió trên Biển Đông, tuy nhiên xấp xỉ đến cao hơn về giá trị. Cụ thể, mật độ năng lượng gió trung bình năm ở trung tâm Vịnh Bắc Bộ và vùng biển Ninh Thuận đến Bà Rịa-Vũng Tàu là 500-900 W/m2 và 400-600 W/m2 ở độ cao 100m (trong khi kết quả do Bộ TN&MT công bố là 500-700 W/m2 và 300-500 W/m2 tương ứng).
Tổng công suất kỹ thuật có thể khai thác 1068 GW (tính ở độ cao 100m), trong đó công suất vùng biển phía bắc khoảng 174 GW, phía Nam khoảng 894 GW.
Ước tính tiềm năng kỹ thuật đạt 1068 GW, cao hơn nhiều so với con số 599 GW trong báo cáo "Offshore Wind Roadmap” của Ngân hàng Thế giới năm 2021, chủ yếu nhờ phạm vi khảo sát rộng hơn và mô hình khí hậu được hiệu chỉnh kỹ lưỡng với dữ liệu thực đo trong nước.

Báo cáo thể hiện phân bố mật độ năng lượng gió các tháng trong năm. Ảnh: Trung Nguyên.
Vùng biển ven bờ (đến 6 hải lý) có tổng công suất kỹ thuật là 57,8 GW. Trong đó, một số tỉnh có tiềm năng nổi bật. khu vực biển Bạc Liêu - Cà Mau chiếm gần 30% tổng tiềm năng ven bờ (trên 16 GW); Ninh Thuận - Bình Thuận trên 24 GW, tập trung tại vùng ven các huyện Ninh Phước, Tuy Phong; Quảng Trị – Thừa Thiên Huế có tiềm năng nhỏ hơn nhưng ổn định về tốc độ gió vào mùa đông.
Riêng tại đồng bằng Bắc Bộ, vùng biển ven bờ chỉ có tiềm năng đạt 0,17 GW, chủ yếu do vùng nước cạn, quy hoạch hạn chế và giao cắt vùng bảo tồn.
Atlas thể hiện bản đồ tốc độ gió trung bình, mật độ công suất gió, hệ số biến thiên gió, hiển thị chi tiết từng ô lưới 3x3 km trên toàn vùng biển Việt Nam và cho phép tích hợp vào các hệ thống GIS. Dữ liệu có thể hỗ trợ trực tiếp các quy hoạch điện gió quốc gia, địa phương và các dự án đầu tư cụ thể.
Ngoài chỉ số tốc độ gió trung bình, báo cáo còn cung cấp các chỉ số như mật độ công suất, hệ số biến thiên, sự phân hóa theo độ cao tuabin (từ 10-250m), và đặc biệt là phân tích biến động theo tháng và mùa trong năm cũng như đánh giá rủi ro thiên tai ảnh hưởng đến hoạt động điện gió ngoài khơi.
Link nội dung: https://nongnghiepmoitruong.vn/viet-nam-so-huu-kho-dien-gio-ngoai-khoi-len-toi-1068-gw-d749004.html