| Hotline: 0983.970.780

Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt

Uông Thái Biểu: Viết để sống và hàm ơn cuộc đời

Thứ Năm 27/11/2025 - 20:16

Viết để sống, viết để biết ơn là cách sống, cách viết nhập thế đầy sự vận động của Uông Thái Biểu.

Mỗi người cầm bút đều mang mục tiêu riêng. Có người viết để thấu hiểu chính mình, có người viết để trút bỏ nỗi đau chia sẻ cảm xúc, có người mong mỏi con chữ sẽ định hình tên tuổi. Nhưng cũng có những người viết với tâm thế viết để tạ ơn cuộc đời đã giữ cho mình những giá trị tốt đẹp nuôi dưỡng yêu thương dù đời đã trải qua bao thăng trầm hao khuyết. Uông Thái Biểu là một người cầm bút như thế.

Nhà báo Uông Thái Biểu trong một chuyến công tác. Ảnh: NVCC.

Nhà báo Uông Thái Biểu trong một chuyến công tác. Ảnh: NVCC.

Viết bằng sự hàm ơn cuộc đời

Là một nhà báo hết lòng với nghề, Uông Thái Biểu từng kinh qua nhiều vị trí quản lý như Thư ký tòa soạn báo Lâm Đồng, Phó Vụ trưởng - Phó trưởng Ban Nhân Dân cuối tuần rồi Vụ trưởng - Trưởng Cơ quan đại diện Báo Nhân Dân tại miền Trung - Tây Nguyên. Trong nghiệp viết, ông không coi mình là nhà báo nhà văn hay nhà thơ, chỉ là Uông Thái Biểu - người cầm bút giản dị với những suy tư trải nghiệm sâu sắc cùng nghề. Từ thơ, bút ký, tản văn cho đến các thể loại báo chí, ông luôn viết với một tâm thế chắt lọc cô đọng đầy xúc cảm, không đao búa sắc nhọn mà thâm trầm, sâu sắc. Những bài viết của ông như dòng sông sâu tĩnh lặng, ngòi bút chạm đến những miền sống với một thái độ trân trọng, hàm ơn.

Ông biết ơn đời trao cho con chữ để làm nên những tác phẩm giá trị gửi đến bạn đọc. Cuộc hạnh ngộ của người đọc với các phóng sự, kí sự hay trong hai tập thơ Gió đồng (NXB Trẻ, 2001) và Nhớ núi (NXB Hội Nhà Văn, 2017); hay tập bút kí, đối thoại a lữ hành (NXB Trẻ, 2010) và tập tùy bút và tản văn Gió thổi từ miền kí ức (NXB Hội Nhà văn, 2019) của ông đem đến nhiều phức cảm sâu sắc và trọn vẹn.

Tập bút ký và tản văn Gió thổi từ miền ký ức của Uông Thái Biểu. Ảnh: NVCC.

Tập bút ký và tản văn Gió thổi từ miền ký ức của Uông Thái Biểu. Ảnh: NVCC.

Dù không ngơi viết nhưng trong hơn 35 năm cầm bút của mình, tính đến nay, Uông Thái Biểu chỉ cho ra 4 tập sách. Điều đó cho thấy ông không xem số lượng là tiêu chí mà việc gắn mã định danh của từng bài trong lòng người đọc mới quan trọng. Uông Thái Biểu chỉn chu trong từng chữ, từng câu, từng nội dung hướng tới. Sự thận trọng ấy thể hiện tâm thế con người tôn trọng ngòi bút và biết ơn với ngôn từ, bởi “Ngôn ngữ là mặt dương của tấm phim âm bản” (Đoản thi cho con). Ông không sử dụng câu chữ, mượn con chữ như công cụ, thủ pháp tô hồng hay bôi đen, mà tôn trọng tính chân thực của xúc cảm. Mỗi bài thơ của ông đều chứa những thi ảnh đẹp nhưng vô cùng tự nhiên và liền mạch cảm xúc, đó không phải là thủ pháp mà là cảm pháp.

Trong bài thơ Đoản thi cho con, ông viết “Sẽ có những ngày không mưa không nắng/ Con cố vun hạt vui/ Trên những mùa màng buồn”. Đó là tình cảm, sự trăn trở, lời dặn dò, động viên của đấng sinh thành gửi đến con và hành trình tuổi trẻ với những va vấp. Hay trong ộc thoại, ông viết “Sự ngụy tín cháy như tàn thuốc trước mặt/ Những vỏ ốc định mệnh dập vỡ trên trang giấy trắng”.

Rõ ràng, sự ngụy tín không rực rỡ cháy nhưng đủ sức mạnh tiêu hao, bào mòn con người. Chúng ta sống an toàn, cầm bút an toàn, an toàn trong những vỏ ốc của chính mình nhưng đó không phải là sống, không phải là viết. Muốn sống ra sống, viết ra viết, cần đập vỡ vỏ ốc ấy, đối diện với trang giấy trắng là sự thanh lọc bản thân, thanh lọc ngòi bút, sự sáng tạo. Đừng để ngôn ngữ trở thành công cụ nguỵ tín. Ở phương diện nào đó, người đọc cảm nhận đây là tuyên ngôn sáng tạo của ông.

Có một Uông Thái Biểu đã sống mỗi ngày với những đau đáu biết ơn mảnh đất và con người Tây Nguyên. Mảnh đất đã đón ông đến và bằng tình yêu giữ chân ông lại từ những tháng năm tuổi trẻ thích rày đây mai đó.

Nhà báo Uông Thái Biểu chuẩn bị nghi lễ làm con của buôn làng người Mạ. Ảnh: NVCC.

Nhà báo Uông Thái Biểu chuẩn bị nghi lễ làm con của buôn làng người Mạ. Ảnh: NVCC.

Tây Nguyên trong ông không phải là những cuộc viễn du đến rồi đi như làn gió. Ông chọn bén rễ sâu vào đời sống văn hóa bản địa như Cơ Ho, Mạ, Chu Ru… Ông như người con Tây Nguyên chảy trong mình dòng máu của buôn làng, như cây K’nia của núi rừng Tây Nguyên, như dòng suối âm thầm chở mạch nguồn đại ngàn về phố.

Khi viết về người Tây Nguyên, ông không xem họ là nhân vật. Họ là tri âm, tri kỉ, là “những người bạn rừng”. Như già làng Ya Loan trong Phiêu lãng Chu Ru dốc hết túi khôn thông thái cho người đồng bào mình. Với sự trân trọng, đồng cảm, tin cậy, Uông Thái Biểu đã “dùng trái tim để viết”, nên khi đọc Phiêu lãng Chu Ru, chúng ta thọ nhận những tri thức nguồn gốc tộc người, hiểu được tâm tính, cốt cách, hồn vía người Chu Ru.

Hay trong Hãy trả sử thi về cho nhân dân, bằng lòng biết ơn và thấu hiểu, ông đã đưa ra nhận định sắc bén: Môi trường diễn xướng góp phần tôn vinh giá trị của sử thi là bên bếp lửa và núi rừng chứ không phải “đưa nghệ nhân lên sân khấu để khan”. Ánh đèn sân khấu “kéo khan ra khỏi tâm linh của những chủ thể, những người sáng tạo nên khan”.

Viết về những người con của núi rừng như nhạc sĩ Y Phôn Ksor, trong mắt Uông Thái Biểu, Y Phôn Ksor là nghệ sĩ không chỉ sáng tác âm nhạc mà đang níu giữ hồn vía của cả một tộc người, là cầu nối giữa hiện đại và nguyên sơ, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa hành trình hôm nay và dấu chân tổ tiên xưa.

Không mang tâm thế người viết với sứ mệnh đánh lên hồi chuông về bảo tồn văn hóa rừng, văn hóa đại ngàn, Uông Thái Biểu chỉ mong muốn thông qua tác phẩm, truyền cảm hứng để người đọc tự khám phá, để yêu và trân trọng.

Là người có kiến thức văn hóa bản địa sâu rộng, nhưng Uông Thái Biểu luôn đặt ngòi bút của mình ở vị trí người chịu ơn. Trong Hiền nhân giữa đại ngàn, ông viết: “Tôi thấy mình mắc nợ tấm chân tình của họ. Những bậc hiền minh ấy ít dạy bằng lời nói, họ truyền kinh nghiệm và tri thức sống cho người khác bằng chính hành vi ứng xử linh hoạt và giàu chất nhân văn của mình…”.

Nhà báo, nhà thơ Uông Thái Biểu (thứ hai từ phải sang) cùng đồng bào Chu ru huyện Đơn Dương, Lâm Đồng. Ảnh: NVCC.

Nhà báo, nhà thơ Uông Thái Biểu (thứ hai từ phải sang) cùng đồng bào Chu ru huyện Đơn Dương, Lâm Đồng. Ảnh: NVCC.

Đôi khi, thông điệp của bài viết không phải là tiếng chuông vang vọng mà là tiếng lòng thổn thức, là lời nhắc nhở nhẹ mà cay, như cách ông viết về đám tang bà Ka Ơnh trong Cay mắt mẫu rừng. Mẫu ảnh Ka Ơnh từng đem lại nhiều giải thưởng danh giá cho nhiều nhà nhiếp ảnh, nhưng “trong đám tang của bà cụ Ka Ơnh không hề có một bức chân dung để thờ”.

Nhiều và rất nhiều các bài viết của Uông Thái Biểu là tiếng lòng trăn trở và biết ơn sâu sắc với mảnh đất, con người Tây Nguyên. Ông nói: “Tôi luôn biết ơn núi rừng và những người anh em đồng bào thiểu số ở đó. Chính văn hóa của họ, lối sống của họ làm thay đổi nhiều trong nhận thức và cảm xúc của tôi”.

Vì vậy, viết là cách ông trả món nợ ân tình. Trong những trang viết ấy, ông dành một góc trân trọng cho bà Ba - người đã cứu cậu bé Biểu trong lần sơ tán năm 1972 (Người cứu tôi trong ngày chạy giặc). Năm tháng miên viễn nhưng cậu bé 6 tuổi ngày ấy đã đóng đinh từng chi tiết và mang theo mối ân tình trong suốt hành trang làm người của mình. Các trang viết của ông còn dành những góc hàm ơn để viết về những con người bình dị dễ bị cuộc sống bỏ quên…

Sống để viết và viết để sống

Trong những cuộc tọa đàm văn chương với những cây bút trẻ, Uông Thái Biểu thường đặt ra câu hỏi “nếu không viết, bạn có chết không?”.

Cái chết của người cầm bút là chết lương tâm - chết trước cái đẹp, cái tốt. Chết cảm xúc - sự chây lười cẩu thả hời hợt khi viết. Câu hỏi của ông vừa giống một lời chất vấn, vừa như một lời nhắc nhở những người cầm bút cái tâm thế trong sáng, nhiệt thành, viết với sự dồn nén câu thúc bên trong.

Ở lớp bề mặt, câu hỏi này phản ánh sự gắn bó tuyệt đối giữa đời sống tinh thần và người cầm bút. Ở chiều sâu, viết không đơn thuần là một lựa chọn nghề nghiệp hay phương tiện biểu đạt, mà là một bản năng sinh tồn. Khi còn viết, nghĩa là còn giữ được hơi thở tinh thần; khi không còn viết, chẳng khác nào một phần bản thể đã chết.

Khi xem viết là lẽ sống thì ngòi bút sẽ biết hướng tới những con người đang bị bỏ rơi, lãng quên và khao khát sống. Uông Thái Biểu viết về làng phong: “là nơi chốn của kí ức, nơi gửi gắm phận người, nơi kẻ ngã người nâng, nơi sẻ chia hạnh phúc ngọt ngào ít ỏi” (Có một làng Vân nơi chân sóng); Về những người đồng bào đã dốc lòng vì cuộc kháng chiến “Ka” gì ơi! Mười mấy năm rồi tôi đã không được nghe em nói. Có phải mẹ em đã quỵ xuống sau một trận sốt rét rừng khi cõng muối vượt rừng nuôi cán bộ? Có phải cha em đã hi sinh trong một trận chống càn? Em đã lớn lên như một nhánh rừng vượt qua giông bão” (Mắt của rừng).

Nhà báo Uông Thái Biểu cùng lũ trẻ buôn làng người Mạ ở Lộc Bắc. Ảnh: NVCC.

Nhà báo Uông Thái Biểu cùng lũ trẻ buôn làng người Mạ ở Lộc Bắc. Ảnh: NVCC.

Đó là những tác phẩm, bài viết không bắt nguồn từ nhu cầu chia sẻ hay sáng tạo, mà còn từ sự câu thúc và nỗi đau bên trong. Viết giúp ông lưu giữ hình bóng quê hương: “Ở đâu đó trong lãng quên hồn nhiên và nhớ nhung cơ học/ Phù sa vẫn mướt nương ngô…” (Kí ức sông). Viết để làm sống lại những làn điệu dân ca có thể bị lãng quên trong nhịp sống trẻ “Dấu lặng nửa đời xa lạ/ Một lần ngây ngất cùng Lim” (Quan họ). Viết để sống lại những giá trị văn hóa bản địa đang bị mai một chuyển hóa “những phát sinh mới về tâm lý thế hệ, về văn hóa ứng xử… đã tách những bếp lửa riêng tư ra khỏi những ngôi nhà dài mà cha ông họ từng kiến tạo và coi như báu vật” (Còn đâu bếp lửa nhà dài). Mỗi tác phẩm là một lần ông khẳng định mình tồn tại giữa thế giới này mà sống và khơi lại nguồn sống.

Viết để sống, viết để biết ơn là cách sống, cách viết nhập thế đầy sự vận động. Uông Thái Biểu không chỉ ngồi trong phòng để tưởng tượng; ông đi và sống, quan sát, trải nghiệm và thẩm thấu đời sống trước khi đưa chúng vào tác phẩm. Sự giàu có của trải nghiệm đời thường và trái tim yêu thanh thuần những điều mình viết đã trở thành mạch nguồn cho tác phẩm. Ông như sợi dây nối phố với rừng, nối truyền thống với hiện đại, nối những miền yêu đã lìa đã đứt trong đời. Không đóng khung trong ngôn ngữ báo chí hay ngôn ngữ văn chương, tất cả đều được nương theo từng mạch cảm xúc. Chính vì vậy, tác phẩm của ông không hề cứng nhắc, mà luôn chứa một nguồn nhiệt ấm áp, một miền đất đủ rộng để bạn đọc có chỗ đứng được đồng sáng tạo, là chủ thể phụ dự một phần những suy tư chiêm nghiệm và yêu thương của riêng mình. Đó là kết tinh của sự từng trải và thấu hiểu vừa đủ để vừa gần gũi vừa lay động người đọc, để mỗi bài viết sinh ra tự có sức sống của riêng nó.

Link nội dung: https://nongnghiepmoitruong.vn/tri-thuc-nong-dan/uong-thai-bieu-viet-de-song-va-ham-on-cuoc-doi-d786931.html