Chiều 1/7, Diễn đàn ‘Kết nối sản xuất và thương mại nông lâm sản các tỉnh Tây Bắc’ diễn ra tại tỉnh Sơn La. Sự kiện do Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Hội Làm vườn Việt Nam, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường; Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật; Văn phòng SPS Việt Nam; Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam; Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam; Sở Nông nghiệp và Môi trường Sơn La tổ chức.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam phát biểu kết thúc Diễn đàn.
Dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam, diễn đàn tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, quy tụ lãnh đạo ngành nông nghiệp các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, cùng các viện nghiên cứu, hiệp hội, doanh nghiệp… nhằm trao đổi các giải pháp phát triển sản xuất, thương mại những sản phẩm chủ lực của vùng như cà phê Arabica, mắc ca, cây ăn quả, dược liệu…
Tổng thuật: Diễn đàn "Kết nối sản xuất và thương mại nông lâm sản các tỉnh Tây Bắc"
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam phát biểu kết thúc Diễn đàn.
Với nhiều lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng và đa dạng sinh học, Tây Bắc được đánh giá là vùng tiềm năng trong phát triển nông lâm sản hàng hóa. Những năm gần đây, nhờ sự đầu tư của Nhà nước và quyết tâm của địa phương, khu vực này đã hình thành các vùng chuyên canh tập trung, đưa giá trị xuất khẩu nông sản năm 2024 đạt khoảng 245 triệu USD. Tuy nhiên, sản xuất vẫn mang tính nhỏ lẻ, phân tán; liên kết chuỗi còn lỏng lẻo; công nghệ chế biến, bảo quản và truy xuất nguồn gốc chưa đáp ứng yêu cầu thị trường.

Rất đông đại biểu, phóng viên các cơ quan báo chí có mặt tại đầu cầu trực tiếp - Khách sạn Hoa Ban Trắng, phường Tô Hiệu, tỉnh Sơn La.
Theo đó, diễn đàn lần này đặt mục tiêu thúc đẩy mô hình sản xuất theo chuỗi khép kín, từ trồng trọt - sơ chế - chế biến đến tiêu thụ, nâng cao giá trị sản phẩm gắn với xây dựng thương hiệu vùng miền, đồng thời lan tỏa tinh thần Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

Nhà báo Trần Cao, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường, dẫn Tọa đàm: Kết nối sản xuất và thương mại một số sản phẩm chủ lực vùng Tây Bắc (cà phê Arabica, mắc ca, cây ăn quả, dược liệu…)

Các đại biểu chăm chú theo dõi Tọa đàm.
Diễn đàn được tổ chức kết hợp trực tuyến qua nền tảng Zoom tại đường dẫn: https://zoom.us/j/96359613851?pwd=o7DcbI2STrW8cGiaMfCqEwVXsxIIdz.1
ID cuộc họp: 963 5961 3851 | Mật mã: 302025.
17 giờ 30 phút
'Ai làm chủ được vùng nguyên liệu sẽ làm chủ được chuỗi giá trị nông sản'
Phát biểu kết thúc Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam đánh giá cao những ý kiến, chia sẻ tâm huyết từ các đại biểu, cho rằng đây là những gợi mở quan trọng để khai thác hiệu quả tiềm năng của khu vực.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam khẳng định, xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn là yếu tố cốt lõi, quyết định khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Trên tinh thần đó, ông đề nghị lãnh đạo các tỉnh Tây Bắc phải đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch sau sáp nhập đơn vị hành chính. Cần rà soát, quy hoạch lại từng xã để xác định các vùng trồng chủ lực, quy mô sản xuất phù hợp, từ đó định hướng lại và tích hợp vào quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp địa phương.
“Xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn là yếu tố cốt lõi, quyết định khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Điển hình như tỉnh Sơn La đã xây dựng thành công 50.000ha vùng nguyên liệu dứa và chanh leo đạt chuẩn về giống, hạ tầng và quy trình canh tác”, Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhấn mạnh. “Ai làm chủ được vùng nguyên liệu sẽ làm chủ được chuỗi giá trị nông sản”.
Cùng với đó, các tỉnh Tây Bắc cần tập trung xây dựng chuỗi giá trị và tăng cường liên kết sản xuất. Với lợi thế của từng tỉnh, lãnh đạo địa phương cần khuyến khích doanh nghiệp và nông dân hợp tác theo chuỗi sản xuất khép kín, đảm bảo tiêu chuẩn từ đầu vào đến đầu ra, thay vì chỉ ký hợp đồng mua bán đơn thuần.
Bên cạnh tổ chức lại sản xuất và ứng dụng khoa học công nghệ, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đề xuất nâng cao năng lực chế biến sâu và bảo quản sau thu hoạch. Trong đó, các cơ quan quản lý và hợp tác xã cần tiếp tục phối hợp với các doanh nghiệp lớn để xây dựng hệ thống sơ chế, đóng gói, kho lạnh tại các hợp tác xã, tổ hợp tác và đại lý thu gom, bảo đảm chất lượng nông sản theo yêu cầu thị trường.
Về giải pháp quản lý chất lượng, giảm chi phí sản xuất cho nông dân, Thứ trưởng Trần Thanh Nam gợi ý xây dựng các cơ sở vệ tinh, hệ thống giống thương mại, đồng thời đẩy mạnh phát triển sản phẩm OCOP của vùng.
Nhằm kiện toàn bộ máy nông nghiệp, Thứ trưởng Trần Thanh Nam đề nghị Văn phòng SPS Việt Nam chủ động tham mưu cho Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đồng thời phối hợp chặt chẽ với Cục Hải quan và chính quyền địa phương để cập nhật, hoàn thiện dữ liệu vùng trồng. Đây là bước quan trọng nhằm đảm bảo tính minh bạch, chính xác trong truy xuất nguồn gốc, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu nông sản ra thị trường quốc tế.
17 giờ 00 phút
‘Tây Bắc hãy bắt tay đoàn kết để nông nghiệp phát triển bền vững’
Phát biểu kết thúc Tọa đàm, ông Nguyễn Thành Công, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La, nhấn mạnh rằng điều quan trọng nhất khi tổ chức một diễn đàn như thế này là sản phẩm cụ thể mà chúng ta tạo ra. “Làm bất cứ việc gì cũng phải hướng đến kết quả cuối cùng - ở đây chính là những cam kết, mô hình, giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững có thể áp dụng thực tiễn trong toàn vùng Tây Bắc”, ông nói.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La Nguyễn Thành Công phát biểu kết thúc Tọa đàm.
Chia sẻ thêm về mô hình chính quyền 2 cấp, lãnh đạo tỉnh Sơn La cho rằng đây là một thể chế đặc biệt của Việt Nam đang được Sơn La triển khai hiệu quả. Ngay từ đầu giờ làm việc của ngày đầu tiên, toàn bộ 75 xã, phường trên địa bàn tỉnh đã vận hành liên thông các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân.
Như vậy, với các thủ tục đến doanh nghiệp, hợp tác xã như cấp mã số vùng trồng hay giải quyết các vấn đề kỹ thuật về khuyến nông, chăn nuôi, bảo vệ thực vật, ông Công khẳng định: “Người dân không cần lo lắng, vì dù thực hiện ở xã nào, tất cả vẫn là thủ tục hành chính nhà nước và đều được giải quyết theo đúng quy định, có liên thông giữa các cấp. Ở Sơn La, các trung tâm dịch vụ nông nghiệp, trực thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường, sẽ hướng dẫn, tiếp nhận, xử lý rõ ràng từng trường hợp cụ thể”.
“Hôm nay, diễn đàn này chính là cây cầu nối để Sơn La, Điện Biên, Lai Châu và các tỉnh trong vùng bắt tay nhau chặt chẽ hơn, không đi riêng rẽ”, ông nói.
Theo ông, để có được thành công như hiện nay, Sơn La đã trải qua không ít thất bại và thách thức. Bài học lớn nhất chính là tinh thần liên kết vùng, chia sẻ thông tin, phối hợp quy hoạch và tổ chức sản xuất. Đặc biệt, ông kêu gọi sự vào cuộc mạnh mẽ hơn từ các tập đoàn, nhà máy lớn, những đơn vị đủ sức bao tiêu nguyên liệu quy mô lớn và tham gia sâu vào quá trình tổ chức sản xuất nông nghiệp bền vững, hiện đại.
“Chúng tôi, những người lãnh đạo cấp tỉnh, cam kết sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp để cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư thuận lợi nhất, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn,” ông Công khẳng định. Với vai trò là trung tâm kết nối vùng, Sơn La mong muốn thúc đẩy chuyển giao công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật để nông nghiệp Tây Bắc phát triển xứng đáng với sự kỳ vọng, yêu thương và tin tưởng của người dân, các nhà khoa học, doanh nghiệp và toàn hệ thống chính trị.
“Thông điệp cuối cùng tôi muốn gửi gắm là: Tây Bắc đoàn kết - có đoàn kết mới có phát triển, không chỉ cho nông nghiệp mà cho cả nền kinh tế của vùng, với niềm tin từ Đảng, Nhà nước và nhân dân”, ông Công khép lại Tọa đàm với lời kêu gọi.
16 giờ 50 phút
Doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần cập nhật đúng mã số vùng trồng, đóng gói
Việc thay đổi địa chỉ nhà máy hay người đại diện cơ sở đóng gói có thể khiến hàng hóa bị ách tắc khi xuất khẩu sang Trung Quốc nếu doanh nghiệp không cập nhật đúng thông tin trên hệ thống quản lý CIFER.
Thông tin trên được ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, đưa ra khi trả lời về việc định danh mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói trong bối cảnh chuyển đổi mô hình chính quyền hai cấp tại một số địa phương.

Ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, trả lời về vấn đề thay đổi địa chỉ mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói khi triển khai chính quyền 2 cấp.
Theo ông Nam, các quy định 248 và 249 của Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) nêu rõ: nếu có thay đổi về địa điểm đặt nhà máy hoặc người đứng đầu chịu trách nhiệm, doanh nghiệp bắt buộc phải cập nhật thông tin trên hệ thống CIFER - cổng thông tin quản lý và kiểm duyệt thực phẩm nhập khẩu của GACC.
"Trên thực tế, trước đây khi Quy định 248, 249 mới triển khai, đã có trường hợp doanh nghiệp khai báo không đúng thông tin, dẫn tới hàng hóa không được thông quan", ông Nam cho biết.
Trước tình trạng này, tại phiên họp lần thứ 92 của Ủy ban SPS thuộc WTO (từ ngày 17 đến 20/6), Văn phòng SPS Việt Nam đã chính thức làm việc với GACC để đề nghị tạo sự liên thông trong cập nhật thông tin địa danh. Phía Trung Quốc cơ bản đồng thuận và cam kết sẽ thông báo thay đổi tới các cơ quan chức năng liên quan, đồng thời bảo đảm duy trì giao thương nông sản song phương.
Ông Nam lưu ý thêm, trong quá trình xuất khẩu, nếu doanh nghiệp gặp vướng mắc do thông tin địa chỉ không khớp với dữ liệu trên hệ thống, có thể chủ động liên hệ với Văn phòng SPS Việt Nam để được hỗ trợ xử lý.
16 giờ 40 phút
Dược liệu thành công nhờ chọn đúng loại cây, giống tốt, liên kết chặt chẽ
Theo bà Vũ Thị Vân Phượng, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần VietRAP Đầu tư Thương mại, dược liệu là loại cây đặc thù, cần tuân thủ quy trình canh tác nghiêm ngặt nên việc xây dựng vùng nguyên liệu ban đầu gặp rất nhiều khó khăn.

Bà Vũ Thị Vân Phượng, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần VietRAP Đầu tư Thương mại, nhấn mạnh: "Điều quan trọng là lựa chọn đúng loại cây, giống tốt, có đơn vị bao tiêu và đầu tư vào phát triển bao bì, nhãn mác..."
Bên cạnh đó, công ty tập trung phát triển các nhóm dược liệu quý như thất diệp nhất chi hoa, tam thất, sâm và một số loại dược liệu ngắn ngày. Những giống cây này đòi hỏi thời gian canh tác dài và rủi ro cao nếu không có liên kết bền vững với người dân.
Bà Phượng chia sẻ, khi bắt tay xây dựng vùng nguyên liệu, công ty đã cử cán bộ "cắm bản", tham gia sinh hoạt với bà con và lồng ghép yếu tố về phụ nữ, thanh niên, và yếu tố bình đẳng giới trong nhiều hoạt động. Khi đã trở thành một thành viên trong đồng bào, các cán bộ mới bắt đầu kết nối bà con để cùng xây dựng vùng nguyên liệu.
“Chúng tôi mất tới 5 năm để xây dựng và ổn định vùng nguyên liệu, bắt đầu từ các cây dài ngày, sau đó chuyển sang các loại dược liệu ngắn ngày để duy trì lực lượng lao động và phù hợp với thị trường”, bà Phượng cho biết.
Với kinh nghiệm tích lũy, khi phát triển vùng trồng dược liệu tại Vân Hồ (Sơn La), công ty chỉ mất một năm đầu để liên kết với 3 hợp tác xã chủ chốt với hàng trăm hộ dân. Sau 3 năm, diện tích vùng trồng đạt 60ha, trong đó 20ha đã thu hoạch đến chu kỳ thứ tư.
“Điều quan trọng là lựa chọn đúng loại cây, giống tốt, có đơn vị bao tiêu và đầu tư vào phát triển bao bì, nhãn mác. Khi có mô hình mẫu rõ ràng, bà con không chỉ thấy dược liệu là cây thuốc mà còn là công cụ nâng cao sinh kế, phát huy giá trị bản địa”, bà Phượng nhấn mạnh.
Về giá trị kinh tế, bà Phượng dẫn chứng với cây đinh mẫu - vốn mọc hoang và từng bị bỏ quên, khi được trồng trở lại, đã có thể thu hoạch sau 4,5 - 5 tháng, mang lại thu nhập khoảng 160 triệu đồng/ha. VietRAP hiện đang xây dựng mô hình vùng trồng gắn với hợp tác xã quản lý và các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, từ đó đưa dược liệu vào sản xuất thuốc, trà và các sản phẩm có giá trị gia tăng. Công ty cũng đang hướng đến hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế từ cây dược liệu và mong muốn phát triển sản phẩm đồ uống có thành phần thảo dược trong tương lai.
16 giờ 30 phút
Ưu tiên tối đa cho chất lượng, an toàn thực phẩm
Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Nguyễn Quốc Mạnh cho biết, ưu tiên số 1 khi phát triển cây ăn quả, đặc biệt khi xuất khẩu sang thị trường khắt khe như Trung Quốc, Nhật Bản, Châu Âu là chất lượng, an toàn thực phẩm.

Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Nguyễn Quốc Mạnh cho biết, mỗi tỉnh trong khu vực Tây Bắc đều có những định hướng phát triển riêng, phù hợp với điều kiện của địa phương.
Ông Mạnh cho biết, Tây Bắc có lợi thế về điều kiện tự nhiên và khí hậu nhiều vùng tiểu khí hậu khác nhau, rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp và cây ăn quả. Khó khăn của Tây Bắc là địa hình của các tỉnh rất chia cắt, manh mún, gây nhiều khó khăn cho việc phát triển sản xuất.
Theo lãnh đạo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, mỗi tỉnh trong khu vực Tây Bắc đều có những định hướng phát triển riêng, phù hợp với điều kiện của địa phương.
Có thể kể đến Sơn La và Hòa Bình phát triển mạnh về cây ăn quả như nhãn, xoài; Điện Biên phát triển mạnh về cây công nghiệp như mắc ca, cao su; Lai Châu phát triển cây chè và cao su. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chỉ đạo xây dựng đề án này để xác định những loại cây ăn quả phù hợp với từng tỉnh.
Cuối phần thảo luận, ông Mạnh cho biết, cần chú ý không gây mất rừng và suy thoái rừng, đặc biệt với cây cà phê và cao su, để đáp ứng các yêu cầu về chống phá rừng của thị trường xuất khẩu như châu Âu.
16 giờ 20 phút
Kỳ vọng thu nhập 100 triệu đồng/năm trên mỗi héc-ta sản xuất tại Tây Bắc
Phát biểu tại Tọa đàm, ông Nguyễn Lân Hùng, Tổng Thư ký Hội Các ngành sinh học Việt Nam, người đã có mối liên hệ sâu sắc với Sơn La từ những năm 1990, bày tỏ sự ngạc nhiên trước sự thay đổi vượt bậc của tỉnh. Ông cho rằng, Sơn La hiện nay không chỉ là một hình mẫu cho các tỉnh miền núi khác noi theo, mà còn đang tiến nhanh, mạnh, bền vững theo hướng vượt lên cả miền xuôi về cơ cấu cây trồng, vật nuôi.

Ông Nguyễn Lân Hùng, Tổng Thư ký Hội Các ngành sinh học Việt Nam, cho rằng, tiềm năng phát triển cây dược liệu tại Tây Bắc vẫn còn bị bỏ ngỏ, chưa được khai thác đúng tầm.
Theo ông Hùng, Tây Bắc sở hữu tiềm năng đặc biệt lớn để phát triển các lĩnh vực như cây ăn quả, chăn nuôi gia súc và thủy sản. Nhiều loài cây bản địa như trám ghép, dổi ghép, mắc ca, dẻ hạt lớn... được tổ chức sản xuất tốt tạo ra giá trị kinh tế lớn trên vùng đất đồi núi rộng lớn. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng một trong những mảng còn bỏ ngỏ, chưa được khai thác đúng tầm là cây dược liệu.
Ông đưa ra ví dụ sinh động về Singapore, quốc gia có rất ít cây dược liệu, chủ yếu nhập nguyên liệu từ nơi khác nhưng lại đứng đầu thế giới về chế biến và xuất khẩu dược phẩm. Trong khi đó, Tây Bắc của Việt Nam lại có nguồn tài nguyên dược liệu tự nhiên phong phú nhưng chưa phát triển thành ngành hàng lớn. Theo ông, đây chính là “lợi thế cạnh tranh trời cho” của miền núi, cần được quy hoạch bài bản và đầu tư bài bản hơn trong thời gian tới.
Một đề xuất đáng chú ý từ ông là tư duy lại giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích: "Cần đặt mục tiêu mỗi héc-ta phải đạt thu nhập tối thiểu 100 triệu đồng/năm tại khu vực miền núi. Từ Trung ương đến địa phương, các cấp lãnh đạo phải suy nghĩ và tổ chức lại sản xuất để đạt mục tiêu đó, đặc biệt với cây dược liệu".

Vùng trồng na ở Mai Sơn, Sơn La.
Ngoài ra, ông cũng mong muốn báo chí nông nghiệp gắn bó sâu sát hơn với người dân, trở thành kênh thông tin hữu ích cập nhật hằng ngày để nông dân học hỏi, đổi mới tư duy và áp dụng tiến bộ kỹ thuật ngay tại đồng ruộng.
16 giờ 10 phút
Doveco cam kết đồng hành Tây Bắc, nâng tầm nông sản
“Dù có cái được, cái mất nhưng đến giờ có thể khẳng định là Doveco đã hỗ trợ, phát triển các nông sản thế mạnh cho Sơn La”, ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Doveco), chia sẻ về hành trình đầu tư nhà máy chế biến tại Sơn La từ năm 2023. Chỉ sau hơn một năm đứng chân, Doveco không chỉ mở ra hướng đi mới cho những cây trồng chủ lực như xoài, nhãn, ngô ngọt hay rau chân vịt, mà còn định vị lại tiềm năng nông nghiệp vùng cao với tư duy “làm lớn từ những điều giản dị”.

Ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Doveco) khẳng định, Doveco không chỉ đóng vai trò người mua, mà còn là đơn vị tư vấn kỹ thuật, cung cấp giống, bao tiêu sản phẩm và cùng chính quyền địa phương xây dựng chiến lược dài hạn.
Trong số đó, xoài Sơn La, đặc biệt là giống Đài Loan, nổi bật với độ Brix cao nhờ chênh lệch nhiệt độ ngày đêm, rất phù hợp với tiêu chuẩn chế biến và xuất khẩu. “Chúng tôi đã hỗ trợ tiêu thụ được 10% sản lượng xoài địa phương năm vừa rồi và phấn đấu đạt 20% vào năm tới”, ông Khuê nói.
Không dừng lại ở xoài, Doveco mở rộng thu mua với các loại cây trồng dễ chăm, ít rủi ro như dứa và chanh leo, 2 sản phẩm gần như không có tính thời vụ. “Dứa có thể thu hoạch quanh năm, chanh leo cũng vậy, dễ trồng, ít sâu bệnh. Đây là điều mà ngành nông nghiệp các tỉnh Tây Bắc nên đặc biệt quan tâm để tạo điều kiện cho người dân chuyển đổi linh hoạt và có thu nhập ổn định hơn”, Chủ tịch HĐQT Doveco nhấn mạnh.
Với các loại cây này, ông Khuê khẳng định: “Doveco thu mua được bao nhiêu, chế biến được bấy nhiêu. Năng lực hiện tại của nhà máy và hệ thống kho lạnh cho phép chúng tôi tiêu thụ khối lượng lớn mà không lo quá tải”.
Ông ví dụ, một số giống dứa mà Doveco đang hỗ trợ tại Sơn La có thể đem lại doanh thu lên tới 1 tỷ đồng mỗi hecta chỉ sau 14 tháng trồng, nếu được trồng đúng kỹ thuật và đồng bộ.Một điểm sáng khác là chuối. Theo ông Khuê, miền Tây Bắc có lợi thế rõ rệt so với miền Trung, nơi thường xuyên gánh chịu bão lớn khiến vườn chuối thất thu.
“Ở Sơn La hay Lai Châu, chuối ít bị tác động bởi thời tiết cực đoan, điều này tạo điều kiện lý tưởng để phát triển vùng nguyên liệu bền vững. Tại Lai Châu, chúng tôi đã đầu tư xây dựng được nhiều vùng nguyên liệu lớn, sẵn sàng kết nối với các nhà máy chế biến hiện đại”, ông cho biết.
Trên tinh thần phát triển vùng nguyên liệu theo hướng “win-win”, Doveco không chỉ đóng vai trò người mua, mà còn là đơn vị tư vấn kỹ thuật, cung cấp giống, bao tiêu sản phẩm và cùng chính quyền địa phương xây dựng chiến lược dài hạn.
“Vấn đề không nằm ở cây gì mà là phối hợp như thế nào để người dân có thể làm giàu trên chính mảnh đất của mình, từ những cây trồng tưởng như bình thường nhưng lại chứa đựng tiềm năng lớn”, ông Khuê nói.
16 giờ 00 phút
Lai Châu sẽ phát triển sâm theo hướng bền vững
Theo ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu, sâm Lai Châu đã được Bộ Khoa học và Công nghệ cấp bảo hộ và nhiều đối tác quốc tế đánh giá cao từ. Nhằm khai thác tối đa tiềm năng của loài dược liệu quý này, tỉnh sẽ tập trung vào các chính sách bảo tồn giống gốc, lựa chọn cây mẹ, cây đầu dòng chất lượng cao, đồng thời xác lập vùng nguyên liệu để phát triển sâm theo hướng hữu cơ, sạch và đạt chuẩn.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu Hà Trọng Hải cho biết, tỉnh sẽ phát triển sâm theo hướng bền vững, không mở rộng tràn lan.
“Phát triển kinh tế dưới tán rừng sẽ ảnh hưởng tới cấu trúc cục bộ của vùng. Do đó, tỉnh sẽ phát triển sâm theo hướng bền vững, không mở rộng tràn lan”, ông Phong lưu ý.
Lai Châu đang tích cực hợp tác với các đối tác quốc tế, trong đó có Nhật Bản và Hàn Quốc, để phát triển công nghệ chế biến và thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, hiện nay sâm Việt Nam chưa có trong danh mục ADN được công nhận tại Nhật, vì vậy bước đầu tỉnh định hướng chế biến thành thực phẩm chức năng để thâm nhập thị trường này, sau đó phấn đấu đưa sâm Lai Châu vào danh mục nguyên liệu chính thức.
Về hạ tầng, tỉnh ưu tiên phát triển hạ tầng lâm sinh phục vụ trồng và chế biến sâm dược liệu, gắn với phát triển du lịch cộng đồng, đồng thời hỗ trợ giống, xây dựng nhà máy chế biến và xúc tiến thương mại.
“Thời gian tới, tôi đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các nhà khoa học sớm nghiên cứu, xây dựng quy trình chuẩn về kỹ thuật trồng, phòng trừ sâu bệnh, cũng như nghiên cứu dược tính, độc tính để làm cơ sở khoa học đưa vào dược điển và phục vụ xuất khẩu ra các thị trường quốc tế”, ông Hải cho biết.
Bên cạnh đó, lãnh đạo tỉnh Lai Châu đề xuất tăng cường liên kết vùng giữa các tỉnh Tây Bắc như Lai Châu, Yên Bái, Điện Biên, Sơn La để cùng nhau phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững và có giá trị kinh tế cao.
15 giờ 50 phút
Tập đoàn TH tự tin vào vùng nguyên liệu ở Tây Bắc
Tại diễn đàn, ông Ngô Minh Hải, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn TH, cho biết, doanh nghiệp đã nghiên cứu sâu về tiềm năng của vùng, bao gồm các nguồn tài nguyên như cây ăn quả, cây dược liệu, và nguyên liệu để sản xuất giấy.

Ông Ngô Minh Hải, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn TH, cho biết, việc đầu tư vào vùng nguyên liệu, như huấn luyện nông dân và hợp tác xã, là rất quan trọng để có được nguồn nguyên liệu chất lượng tốt.
Dựa trên những nghiên cứu này, TH đã quyết định đầu tư vào hai dự án chính tại Sơn La và Điện Biên.
Đối với dự án chế biến hoa quả và dược liệu tại Sơn La: tập trung vào việc xây dựng nhà máy chế biến hoa quả và dược liệu, nhằm tận dụng nguồn nguyên liệu tại địa phương. Các sản phẩm chính bao gồm nước ép, nước cô đặc, và các sản phẩm chế biến từ các loại trái cây như xoài, nhãn, mận.
Đối với dự án trồng cây mắc ca tại Sơn La và Điện Biên: tập trung vào việc trồng cây mắc ca, một loại cây có giá trị. Dự án được triển khai tại một phần của Sơn La và phần lớn diện tích nằm ở Điện Biên.
Ông Hải cho biết, thách thức hiện nay chủ yếu nằm ở phần đảm bảo nguồn nguyên liệu. TH đã phải xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cho các loại nguyên liệu đầu vào, như độ đường, hình thức,... TH cũng phải tìm kiếm và lựa chọn các nhà cung cấp đáp ứng được các tiêu chuẩn này, đảm bảo chất lượng nguyên liệu tốt nhất.
Đại diện của TH chia sẻ, việc đầu tư vào vùng nguyên liệu, như huấn luyện nông dân và hợp tác xã, là rất quan trọng để có được nguồn nguyên liệu chất lượng tốt.
15 giờ 45 phút
Sơn La phát triển nông nghiệp thông minh, chế biến sâu
Tại tọa đàm, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La Nguyễn Thành Công khẳng định: “Từ năm 2015 đến nay, tỉnh Sơn La đã đạt được những kết quả đột phá trong phát triển nông nghiệp bền vững”. Ông nhấn mạnh, để thực hiện tốt các chủ trương, chính sách giai đoạn tới, Sơn La đang định hình rõ nét một hướng đi cho nông nghiệp địa phương: phát triển theo hướng hữu cơ, thông minh, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Tại Tọa đàm, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La Nguyễn Thành Công nhấn mạnh, tỉnh đang tích cực thu hút đầu tư các nhà máy chế biến, nhằm gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Theo ông Công, trước tiên cần tổ chức sản xuất theo chuỗi khép kín, từ nông hộ, hợp tác xã đến doanh nghiệp, coi đây là yêu cầu tất yếu của lịch sử và phát triển bền vững. Thứ hai, khoa học công nghệ không phải là điều gì cao siêu mà bắt đầu từ những việc rất cụ thể như kỹ thuật ghép mắt cây ăn quả - một điểm mạnh của Sơn La. Chính các nhà khoa học đã đồng hành nghiên cứu, chọn tạo và nhân giống cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu và điều kiện canh tác của địa phương, giúp hình thành các sản phẩm đặc trưng gắn với từng vùng sản xuất.
Một trụ cột khác được ông Công nhấn mạnh là phát triển công nghiệp chế biến sâu. Sơn La đang tích cực thu hút đầu tư các nhà máy chế biến, nhằm gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp, giải quyết bài toán tiêu thụ khi bước vào chính vụ với sản lượng lớn. Việc có các sản phẩm chế biến phù hợp với thị trường nội địa và xuất khẩu sẽ giúp ổn định đầu ra, nâng cao giá trị kinh tế bền vững.
Ông cũng đề cập đến yếu tố cốt lõi là sử dụng hài hòa các nguồn lực tự nhiên, đặc biệt là đất đai - đảm bảo cây trồng sinh trưởng tốt mà không làm tổn hại hệ sinh thái. Cuối cùng, ông cho biết, tỉnh đang tập trung phát triển hệ thống thủy lợi, trong đó có đề xuất với Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng các hồ chứa quy mô từ 100.000 đến 300.000 m³, nhằm bảo đảm nước tưới chủ động cho nông nghiệp địa phương trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng.
15 giờ 40 phút
Tiến hành Tọa đàm 'Kết nối sản xuất và thương mại một số sản phẩm chủ lực vùng Tây Bắc'

Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường Trần Cao (ngoài cùng bên trái) và các diễn giả tham gia Tọa đàm.
Sau khi trình chiếu phóng sự ngắn về mô hình trồng mắc ca, cà phê và dược liệu dưới tán rừng do Báo Nông nghiệp và Môi trường sản xuất, Diễn đàn tiến hành phần Tọa đàm mang chủ đề: Kết nối sản xuất và thương mại một số sản phẩm chủ lực vùng Tây Bắc (cà phê Arabica, mắc ca, cây ăn quả, dược liệu…).
15 giờ 15 phút
Dược liệu dưới tán rừng vẫn thiếu chính sách riêng
Tây Bắc, nơi cư trú của hơn 3.500 loài cây thuốc, chiếm khoảng 70% nguồn dược liệu cả nước, được các nhà khoa học ví như "thủ phủ dược liệu" của Việt Nam. Nhiều loài quý hiếm như Sâm Lai Châu, Tam thất hoang, Bảy lá một hoa… chỉ sinh trưởng tốt trong điều kiện sinh thái đặc biệt tại đây. Sự gắn bó hữu cơ giữa cây thuốc và rừng khiến dược liệu dưới tán rừng trở thành mô hình kinh tế - sinh thái độc đáo, có thể song hành giữa bảo tồn và phát triển.

TS Phạm Quang Tuyến, Viện Nghiên cứu Lâm sinh (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam), trình bày tham luận tại Diễn đàn.
Tuy nhiên, theo TS Phạm Quang Tuyến, Viện Nghiên cứu Lâm sinh (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam), việc phát triển dược liệu dưới tán rừng hiện nay đang gặp nhiều rào cản chính sách. Các quy định hiện hành mới chỉ lồng ghép nội dung dược liệu vào ngành lâm nghiệp hoặc y học cổ truyền, mà chưa có hành lang pháp lý cụ thể cho lĩnh vực đặc thù này.
Hệ quả là nhiều địa phương không thể xây dựng được vùng nguyên liệu quy mô lớn, chưa có tiêu chuẩn kỹ thuật riêng cho khai thác bền vững, cũng như khó thu hút doanh nghiệp đầu tư do thiếu cơ chế tín dụng và bảo hiểm rủi ro phù hợp.
Trong khi đó, nhu cầu thị trường trong và ngoài nước ngày càng cao, với mức tiêu thụ nội địa khoảng 80.000 tấn dược liệu/năm, nhưng mới chỉ đáp ứng được 20-30%. Để lấp đầy khoảng trống này, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn nếu biết tổ chức sản xuất bài bản theo chuỗi giá trị, phát triển vùng trồng đạt chuẩn và chế biến sâu.
TS Tuyến đề xuất cơ quan quản lý khẩn trương ban hành chính sách riêng cho dược liệu dưới tán rừng, trong đó ưu tiên các loài đặc hữu như Sâm Lai Châu, Tam thất hoang, gắn quy hoạch vùng nguyên liệu với quy hoạch ba loại rừng. Bên cạnh đó, là sửa đổi các quy định về thương mại hóa dược liệu quý hiếm, tháo gỡ các vướng mắc trong khai thác, vận chuyển, tiêu thụ hợp pháp.

Trồng cây dược liệu thảo quả dưới tán rừng tại tỉnh Điện Biên.
Ông Tuyến cho rằng, nếu có chính sách phù hợp và kịp thời, dược liệu dưới tán rừng không chỉ giúp người dân làm giàu mà còn là chìa khóa giữ rừng, trở thành “quốc bảo” và đưa Việt Nam lên bản đồ dược liệu toàn cầu.
15 giờ 00 phút
Lai Châu đề nghị sớm gỡ bất cập mã số cơ sở trồng sâm
Ông Bùi Huy Phương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Lai Châu, cho biết, từ đầu năm 2022 đến nay, các lực lượng chức năng của tỉnh đã xử lý 40 vụ vi phạm, trong đó 37 vụ vi phạm hành chính, tịch thu trên 700kg củ, thân, lá sâm; xử lý hình sự 3 vụ, tịch thu trên 300kg sâm.

Ông Bùi Huy Phương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Lai Châu, đề nghị sớm gỡ bất cập mã số cơ sở trồng sâm.
Lai Châu, với địa hình hiểm trở đặc trưng, khí hậu mát mẻ quanh năm và hệ sinh thái rừng nguyên sinh đa dạng, chính là vùng đất lý tưởng cho sự sinh trưởng và phát triển của các loài dược liệu đặc hữu. Toàn tỉnh hiện có trên 23.000ha trồng dược liệu các loại, với các loài chủ lực như Quế (trên 10.000ha), Thảo quả (trên 6.500ha), Sa nhân (trên 2.500ha), Sơn tra (trên 2.000ha), và Sâm Lai Châu (trên 130ha), Thất diệp nhất chi hoa (trên 10ha). Sản lượng dược liệu khai thác hàng năm ước đạt 3.000 tấn, minh chứng cho tiềm năng phát triển dược liệu to lớn của tỉnh.
Trong các loài dược liệu được phát triển trên địa bàn tỉnh, nổi bật nhất phải kể tới sâm Lai Châu. Sâm Lai Châu là loài cây bản địa, đặc hữu, phân bố hẹp trên địa bàn tỉnh Lai Châu, được người dân bản địa sử dụng làm thuốc từ rất lâu với tên gọi tam thất đen, tam thất đỏ. Đến năm 2013, nhóm nghiên cứu Phan Kế Long đã phát hiện, nghiên cứu, mô tả một loại sâm mọc tự nhiên ở huyện Mường Tè, huyện Tam Đường, huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu và đặt tên là Sâm Lai Châu.

Sâm Lai Châu là loài cây bản địa, đặc hữu, phân bố hẹp trên địa bàn tỉnh Lai Châu, được người dân bản địa sử dụng làm thuốc từ rất lâu.
Ông Phương cho biết Lai Châu rất cần đến sự giúp sức của các nhà đầu tư, nhà khoa học và cơ quan quản lý tại Trung ương cùng chung sức giải quyết một số nút thắt, cản trở sự phát triển của Sâm Lai Châu như:
Tháo gỡ bất cập trong cấp mã số cơ sở trồng sâm Lai Châu theo quy định tại Nghị định số 06/2019/NĐ-CP và Nghị định số 84/2021/NĐ-CP, đảm bảo hiệu quả và thuận lợi cho cơ quan quản lý ở địa phương và đơn vị sản xuất Sâm;
Có cơ chế, chính sách đặc thù riêng cho phát triển sâm Việt Nam nhằm tạo hành lang thông thoáng cho các hoạt động đầu tư, khai thác, chế biến sâm Việt Nam nói chung, sâm Lai Châu nói riêng phù hợp với đặc thù của cây trồng giá trị cao;
Tích cực thực hiện nghiên cứu khoa học chuyên sâu trong lĩnh vực nuôi cấy mô sâm Lai Châu để nhân giống nhanh chóng, hiệu quả; các biện pháp phòng trừ sâu, bệnh hại cây trồng tiên tiến; hoàn thiện quy trình kỹ thuật từ trồng, chăm sóc đến thu hoạch; xác định thành phần hóa học, dược chất, dược tính một cách chi tiết; quy trình, công nghệ sản xuất, khai thác, chế biến đáp ứng tiêu chuẩn GACP - WHO, GMP - WHO hoặc tương đương; chiết xuất dược chất, điều chế thuốc, thực phẩm bổ sung từ sâm Lai Châu để đa dạng hóa sản phẩm.
14 giờ 45 phút
Xây dựng thương hiệu chung cho các sản phẩm chủ lực tỉnh Tây Bắc

Ông Lò Hồng Phong, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Điện Biên, đề nghị Bộ hỗ trợ tỉnh tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, chương trình đào tạo kỹ thuật canh tác, xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn quốc tế và phát triển thương hiệu nông sản chủ lực.
Với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng đặc thù của vùng Tây Bắc, Điện Biên có nhiều tiềm năng để phát triển các loại cây có giá trị kinh tế cao như xoài, bưởi, dứa, mắc ca, cà phê, chè và cao su. Tính đến năm 2024, tỉnh đã bước đầu hình thành được 5 vùng sản xuất cây ăn quả tập trung với quy mô 3.000ha.
Về cây công nghiệp, diện tích cà phê đạt gần 4.800ha, cao su hơn 5.000ha, mắc ca hơn 12.300ha, trong đó khoảng 1.500ha sẽ cho thu hoạch vào năm 2025. Bên cạnh đó, Điện Biên đã công nhận 3 giống cây trồng, với 1.551 cây đầu dòng, triển khai VietGAP, GlobalGAP, OCOP và cấp 15 mã số vùng trồng với diện tích khoảng 65ha.
Ông Lò Hồng Phong, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Điện Biên, đánh giá, tình hình sinh vật gây hại cơ bản được kiểm soát, tuy nhiên vẫn tồn tại diện tích canh tác theo kinh nghiệm, chưa áp dụng kỹ thuật đồng bộ, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm.
“Dù đạt được nhiều kết quả tích cực, Điện Biên vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức lớn như: Thiếu liên kết bền vững giữa nông dân và doanh nghiệp, hệ thống logistics còn hạn chế, chế biến sâu và bảo quản sau thu hoạch chưa đáp ứng yêu cầu phát triển hàng hóa quy mô lớn”, ông Phong lưu ý.
Trước tình hình đó, tỉnh Điện Biên xác định sẽ tập trung triển khai Quyết định số 3417/QĐ-UBND về phát triển cây ăn quả lợi thế giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030, trong đó, tận dụng vị trí địa lý giáp ranh Sơn La để mở rộng vùng nguyên liệu cung ứng cho các doanh nghiệp lớn như Nafoods Tây Bắc, Đồng Giao, TH True Milk.
Với cây cà phê, Điện Biên chú trọng giữ vững và mở rộng diện tích ở những vùng khí hậu phù hợp, gắn phát triển với du lịch - văn hóa, chú trọng yếu tố môi trường và tuân thủ quy định EUDR của EU để đáp ứng tiêu chuẩn thị trường xuất khẩu.
Với cây mắc ca, tỉnh định hướng trồng tập trung gắn với chế biến sâu, trong khi hỗ trợ doanh nghiệp và người dân sử dụng giống chất lượng, tăng cường kiểm soát nguồn gốc, xây dựng thương hiệu mắc ca Điện Biên và tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược như Tập đoàn TH Group.

Nhà máy chế biến nông sản của Tập đoàn TH tại Sơn La.
“Thời gian tới, tôi đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường hỗ trợ tỉnh tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, chương trình đào tạo kỹ thuật canh tác, xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn quốc tế và phát triển thương hiệu nông sản chủ lực như cà phê chè Arabica Điện Biên, chè Shan tuyết Tủa Chùa. Các tỉnh Tây Bắc nên đẩy mạnh liên kết vùng nhằm chia sẻ thông tin thị trường, xây dựng các kênh phân phối và thương hiệu chung cho các sản phẩm của khu vực. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ kết nối các hợp tác xã với doanh nghiệp chế biến để phát triển chuỗi giá trị cho các sản phẩm nổi bật như cà phê Sơn La - Điện Biên hay chè Tà Xùa - Tủa Chùa”, ông Phong cho biết.
Lãnh đạo tỉnh Điện Biên cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến và thương mại nông sản nhằm đưa các nông sản của vùng vươn ra thị trường trong nước và quốc tế.
14 giờ 30 phút
Xây dựng thương hiệu 'Trái cây Sơn La' và xúc tiến thương mại quốc tế
Tại Diễn đàn Kết nối Sản xuất và Thương mại Nông lâm sản các tỉnh Tây Bắc, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Sơn La Cầm Thị Phong cho biết, tỉnh có gần 120.000ha cây ăn quả và cây công nghiệp lâu năm, sản lượng tương ứng đạt 510.000 tấn và 102.000 tấn. Tỉnh đã phát triển mạnh các vùng cây chủ lực như xoài, nhãn, mận, cà phê, chè, và đạt nhiều kết quả ấn tượng so với năm 2016.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Sơn La Cầm Thị Phong đề nghị Bộ hỗ trợ kết nối tiêu thụ, quảng bá thương hiệu “Trái cây Sơn La”.
Toàn tỉnh hiện có 216 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu, 201 chuỗi cung ứng sản phẩm an toàn, hơn 5.500ha đạt VietGAP, và gần 30.000 tấn cà phê được chứng nhận bền vững. Công tác chế biến và tiêu thụ được đẩy mạnh, thông qua gần 560 cơ sở chế biến, hàng nghìn điểm sấy long nhãn, hệ thống kho lạnh, đưa nông sản vào chuỗi siêu thị lớn và sàn thương mại điện tử.
Tuy nhiên, Sơn La vẫn đối mặt nhiều khó khăn như địa hình dốc, sản xuất phân tán, chi phí cao, biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến năng suất; giống cây chưa đồng đều, tỷ lệ rải vụ thấp; tỷ lệ chế biến sâu và bao bì nhãn mác chưa đáp ứng yêu cầu xuất khẩu; thiếu liên kết hợp đồng bền vững với doanh nghiệp; đất trồng kém bền vững và cơ giới hóa còn hạn chế.
“Hợp đồng doanh nghiệp và nông dân phải có sự bền chắc, nếu có sự vi phạm thì phải có chế tài hợp lý”, bà Phong nói.
Cũng theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Sơn La, định hướng đến năm 2030, tỉnh sẽ ổn định 90.000ha cây ăn quả và 25.000ha cà phê, đẩy mạnh tái canh giống chất lượng cao, tăng tỷ lệ diện tích áp dụng VietGAP, công nghệ tưới tiết kiệm nước, mã số vùng trồng và chế biến sâu. Sơn La đặt mục tiêu trở thành trung tâm chế biến nông sản vùng trung du miền núi phía Bắc.

Dây chuyền chế biến dứa tại Trung tâm chế biến rau, quả DOVECO Sơn La.
Bà Phong đề nghị Bộ hỗ trợ kết nối tiêu thụ, quảng bá thương hiệu “Trái cây Sơn La” và xúc tiến thương mại quốc tế.
14 giờ 20 phút
Sơn La hướng phát triển nông nghiệp theo chiều sâu
Chia sẻ bí quyết phát triển nông nghiệp Sơn La 10 năm qua, ông Nguyễn Thành Công, Phó Chủ tịch tỉnh cho biết, địa phương đã và đang tận dụng mọi cơ hội để phát triển nhanh và bền vững, với định hướng rõ ràng về nông nghiệp thông minh, công nghệ cao, công nghiệp tái tạo và phát triển bền vững gắn với thị trường. Từ nền tảng điều kiện tự nhiên thuận lợi, cùng sự ủng hộ của Trung ương, tổ chức quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp, tỉnh đã khai thác hiệu quả tiềm năng nội lực để chuyển hóa thành động lực tăng trưởng.

Ông Nguyễn Thành Công, Phó Chủ tịch tỉnh Sơn La, cho biết, tỉnh xác định rõ nông nghiệp muốn phát triển bền vững thì phải đi vào chiều sâu.
Trong chu kỳ 10 năm qua, Sơn La luôn duy trì mức tăng trưởng kinh tế dương, đặc biệt năm 2022 đạt trên 8%, và 6 tháng đầu năm 2025 tiếp tục tăng trưởng trên 8%. Đây là những con số khẳng định tính ổn định và năng lực điều hành kinh tế địa phương, đồng thời tạo nền tảng cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, tỉnh giữ vững vai trò của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế, lấy nông nghiệp làm điểm tựa xuyên suốt.
Một trong những dấu ấn quan trọng là kết quả triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia gắn với giảm nghèo bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân gần 4% mỗi năm, thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 61 triệu đồng/năm, vượt mục tiêu tỉnh đề ra trong giai đoạn 2015-2025.
Với hơn 100.000ha diện tích đất sản xuất nông nghiệp, trong đó có hơn 85.000ha cây ăn quả, Sơn La hiện là vùng sản xuất nguyên liệu nông nghiệp lớn của cả nước. Đặc biệt, tỉnh đã hình thành các vùng chuyên canh xoài, nhãn, chanh leo, mận hậu… nhờ triển khai Nghị quyết số 05-NQ/TU từ năm 2015 về phát triển nông nghiệp hàng hóa. Chủ trương phát triển cây ăn quả trên đất dốc không chỉ cải thiện sinh kế người dân miền núi mà còn góp phần chống xói mòn, bảo vệ môi trường sinh thái.
Cùng với cây ăn quả, ngành mía đường của tỉnh cũng ghi dấu ấn khi có nhà máy duy nhất tại miền Bắc vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng trong bối cảnh ngành này gặp nhiều khó khăn trên cả nước.
Trong định hướng sắp tới, ông Công cho rằng, tỉnh xác định rõ nông nghiệp muốn phát triển bền vững thì phải đi vào chiều sâu, nâng cao hàm lượng chế biến sau thu hoạch, thúc đẩy sản phẩm đặc sản, có thế mạnh gắn với thị trường.
Trong đó, công nghệ sau thu hoạch sẽ quyết định chất lượng và giá trị thương phẩm, là khâu cần được tập trung đầu tư. Sản xuất nông nghiệp được tổ chức theo chuỗi liên kết từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ. Sơn La cũng mong muốn phát triển các loại cây dược liệu như sâm, nhưng hiện điều kiện thổ nhưỡng chưa thuận lợi như Lai Châu.

Dây chuyền chế biến xoài tại Trung tâm chế biến rau, quả DOVECO Sơn La.
Do đó, tỉnh đặt mục tiêu quy hoạch sản xuất theo vùng phù hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ cao trong khâu chăm sóc, đặc biệt là kiểm soát sâu bệnh hại trên cây ăn quả và cà phê.
Một trụ cột trong chiến lược phát triển sắp tới là ưu tiên phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo, cảm biến môi trường, tưới thông minh… được xem là hướng đi tất yếu nhằm tăng năng suất, giảm chi phí và đảm bảo chất lượng nông sản đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường trong nước và xuất khẩu.
“Sơn La đang từng bước hoàn thiện hệ sinh thái nông nghiệp hiện đại, bền vững, nơi cây trồng không chỉ là sinh kế, mà còn là sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, có chỗ đứng trên thị trường”, ông Công nhấn mạnh.
Với những nền tảng đã xây dựng, địa phương đang mở ra một chương mới trong phát triển nông nghiệp miền núi phía Bắc, gắn công nghệ, thị trường và đời sống người dân trong một chiến lược hài hòa và dài hạn.
14 giờ 10 phút
Tây Bắc cần tập trung vào các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh
“Trong những năm gần đây, các địa phương ở Tây Bắc đã nỗ lực và chủ động trong việc chuyển đổi sản xuất, tận dụng các cơ hội và lợi thế của vùng để phát triển các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao. Các sản phẩm như cà phê, chè, cây ăn quả đặc sản đã được phát triển và đạt được nhiều thành tựu. Diện tích trồng cà phê ở Tây Bắc tăng 54% và sản lượng tăng 265% trong 10 năm qua”, ông Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, cho biết.

Theo ông Lê Quốc Doanh, một trong những khó khăn mà Tây Bắc đang phải đối diện là các tổ hợp sản xuất nông nghiệp mới đòi hỏi quy trình canh tác và quản lý khác với cây trồng truyền thống.
Tuy nhiên, ông Doanh lưu ý, tỷ lệ chứng nhận chất lượng sản phẩm vẫn chưa cao bằng các vùng khác. Một trong những khó khăn mà Tây Bắc đang phải đối diện là các tổ hợp sản xuất nông nghiệp mới như cây ăn quả, cây dược liệu đòi hỏi quy trình canh tác và quản lý khác với cây trồng truyền thống.
Do đó, các tỉnh Tây Bắc cần có thông tin khoa học, phổ biến kiến thức để nông dân tiếp cận và áp dụng các kỹ thuật mới. “Cần có sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Cần có sự hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan, doanh nghiệp và địa phương để tháo gỡ các khó khăn”, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam cho biết.

Diện tích trồng cà phê ở Tây Bắc tăng 54% và sản lượng tăng 265% trong 10 năm qua. Ảnh minh họa.
Ông Lê Quốc Doanh cho rằng, cần tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi sản xuất, tập trung vào các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh. Tăng cường công tác khuyến nông, đào tạo nông dân về các kỹ thuật canh tác mới. Xây dựng và hoàn thiện chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp, từ sản xuất đến tiêu thụ. Tăng cường liên kết giữa các cơ quan, doanh nghiệp và địa phương để hỗ trợ nông dân.