Trong giới truyền thông môi trường, nhà khoa học Nguyễn Ngọc Huy là nhân vật uy tín, có sức ảnh hưởng, nhờ khả năng ‘phiên dịch’ ngôn ngữ hàn lâm phục vụ cộng đồng.
Tài khoản cá nhân gần 800 nghìn người theo dõi, fanpage cán mốc 100 nghìn người quan tâm chỉ sau 24 tiếng, các phiên livestream có hàng triệu lượt xem… Thời gian qua, tài khoản mạng xã hội cá nhân của chuyên gia nghiên cứu khí hậu, khí tượng và quản lý rủi ro thiên tai Nguyễn Ngọc Huy có sức lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng.
Những con số này cho thấy nhu cầu rất lớn của người dân về thông tin cảnh báo bão, đặc biệt khi thông tin ấy được truyền tải bằng ngôn ngữ dễ hiểu, dựa trên cơ sở khoa học.
Trên không gian mạng xã hội phân mảnh và khó kiểm chứng, trang Facebook cá nhân của TS Huy nổi bật với những bình luận, tương tác cởi mở giữa nhà khoa học và người dân. Tuy không phải “người nổi tiếng” trên truyền thông đại chúng, nhưng TS Nguyễn Ngọc Huy là một nhà khoa học uy tín. Tiếng nói của anh có khả năng kết dính cộng đồng.
Trong cơn bão Yagi, các thông tin khẩn cấp trên Facebook Huy Nguyễn không chỉ góp phần cảnh báo sức tàn phá của bão, mà còn kêu gọi ngư dân vào bờ, hướng dẫn các gia đình gia cố nhà cửa… Các bài đăng của anh luôn nhận sự quan tâm lớn, đặc biệt là những phiên livestream cập nhật xuyên suốt diễn biến siêu bão từ lúc đổ bộ đến khi suy yếu thành mưa dài ngày.
Trước khi có cơ hội tiếp xúc và làm việc với TS Huy cho đề tài cá nhân, tôi đã là độc giả của anh. Tôi từng nghĩ, chỉ cần đủ tâm huyết và nỗ lực, thế hệ trẻ có thể gìn giữ và tái thiết hệ sinh thái. Nhưng thực tế phức tạp hơn tưởng tượng. Những thông tin mới nhất về biến động của hệ thống khí hậu và thời tiết cực đoan, vượt khỏi quy luật thông thường, khiến tôi không khỏi lo lắng.
Liệu thế hệ của tôi còn đủ thời gian và công cụ, liệu còn có thể gìn giữ tài nguyên, tái tạo những gì đang mất đi từng ngày? Tôi tìm đến chuyên gia Nguyễn Ngọc Huy để có câu trả lời.


Mới đây nhất, vào ngày 27/5, Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) đã công bố kịch bản biến đổi khí hậu cập nhật, với sự tham gia của khoảng 200 nhà khoa học hàng đầu thế giới. Những con số đưa ra báo động thời điểm “rất đáng lo ngại”, yêu cầu hành động khí hậu quyết liệt của các chính phủ và cộng đồng dân cư.
Trong báo cáo khí hậu mới nhất cho giai đoạn 2025-2029, các nhà khoa học WMO cảnh báo: nhiệt độ trung bình toàn cầu trong 5 năm tới có khả năng cao hơn từ 1,2-1,9 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp (1850-1900). Xác suất các mô hình khí hậu đồng thuận về khả năng này lên tới 86%, gióng lên hồi chuông về mức nhiệt đáng báo động chỉ trong giai đoạn ngắn.
TS Nguyễn Ngọc Huy khẳng định: “Mục tiêu ban đầu của Thỏa thuận Paris năm 2015 về giữ nhiệt độ toàn cầu không vượt quá 1,5 độ C gần như không còn khả thi. Cơ hội duy trì ngưỡng này đã vượt khỏi tầm tay. Chúng ta cần hướng đến kịch bản thực tế hơn cho tương lai, nỗ lực hạn chế mức tăng không vượt quá 2 độ C”.
Tuy nhiên, thông điệp quan trọng này chưa được lan tỏa rộng rãi qua các kênh truyền thông đại chúng. Anh nhận xét, một số đầu báo Việt Nam có đề cập vấn đề này, song đa phần chỉ thuần đưa tin mà thiếu phân tích sâu về tác động của sự gia tăng nhiệt độ đối với kinh tế - xã hội và sức khỏe cộng đồng.


Diễn giải về mức độ nghiêm trọng, TS Huy so sánh phân tích kịch bản 2025-2029 của WMO và Báo cáo đặc biệt của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) năm 2018 về tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu.
Báo cáo năm 2018 với sự tham gia của gần 1.000 chuyên gia khí hậu, khí tượng và kinh tế, đã phát lời cảnh báo: nếu không hành động sớm, thế giới sẽ không thể duy trì nhiệt độ toàn cầu dưới mức tăng 1,5 độ C.
TS Huy cho biết, lúc bấy giờ, mốc thời gian đạt ngưỡng 1,5 độ C chưa được xác định cụ thể là vào năm nào. Cả Thỏa thuận Paris năm 2015 lẫn Báo cáo IPCC 2018 đều coi đây là mục tiêu cần duy trì càng lâu càng tốt. Nhưng thực tế đã vượt xa cảnh báo.
2024 là năm đầu tiên nhiệt độ trung bình toàn cầu vượt qua ngưỡng 1,5 độ C. Tại Việt Nam, tháng 4/2024 ghi nhận hàng loạt kỷ lục về nắng nóng. Riêng TP.HCM và khu vực Nam bộ ghi nhận 74 ngày nắng nóng liên tiếp, bình quân 3 ngày có 2 ngày nhiệt độ trên 35 độ C - đây là chu trình nắng nóng chưa từng có. Cũng trong tháng 4/2024, có tới 110 trạm khí tượng trên cả nước ghi nhận mức nhiệt cao nhất trong lịch sử.
Khẳng định Trái đất nóng lên là xu hướng “không thể đảo ngược”, TS Huy chỉ ra, dữ liệu khoa học cho thấy mối tương quan chặt chẽ giữa nhiệt độ và nồng độ khí nhà kính trong khí quyển. “Nếu không có biện pháp giảm mạnh phát thải, chúng ta khó mà duy trì được mức tăng nhiệt độ dưới 1,5 độ C như kỳ vọng ban đầu”, chuyên gia lưu ý.


Nhiều người có thể cho rằng sự chênh lệch 0,5 hay 1,5 độ C trong nhiệt độ toàn cầu là không đáng kể. Tuy nhiên, nóng lên toàn cầu đã và đang tác động mạnh mẽ đến tất cả sinh vật, bao gồm động vật, côn trùng, nấm, vi sinh và con người. Hầu hết các sinh vật sống đều rất nhạy cảm với thay đổi nhiệt độ, chỉ biến động nhỏ cũng làm đảo lộn trạng thái cân bằng của chúng.
Trong nông nghiệp, cây trồng rất nhạy cảm với nhiệt độ. Nếu nhiệt độ tăng 1,5 độ C, các hệ sinh thái nông nghiệp sẽ chịu tác động đáng kể. Côn trùng và vi sinh vật, đặc biệt là vi khuẩn và nấm, sẽ sinh sôi nhanh chóng khi được “kích hoạt” bởi nhiệt độ cao hơn, trở thành mối nguy đe dọa năng suất và chất lượng thực phẩm.
Đối với hệ sinh thái biển, nếu nhiệt độ toàn cầu tăng lên 2 độ C thì đến 90% diện tích san hô còn lại trên Trái đất sẽ biến mất. Hiện tượng “tẩy trắng san hô” kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ hệ sinh thái sống dựa vào rạn san hô, bao gồm hàng nghìn loài sinh vật biển. Bởi san hô là nơi cư trú, sinh sản và kiếm ăn của rất nhiều loài cá và sinh vật nhỏ. Khi các mắt xích trong chuỗi thức ăn bị đứt gãy, đa dạng sinh học sẽ suy giảm, ảnh hưởng tới toàn bộ chuỗi sinh thái từ ven bờ đến khơi xa.
Ở mức tăng 2 độ C, tác động lên nông nghiệp cũng không kém phần nghiêm trọng. Một số nghiên cứu chỉ ra, theo kịch bản xấu nhất, thời tiết cực đoan có thể làm giảm 23% sản lượng trái cây, 16% đối với rau, 22% các loại giống cây trồng.



Trong quá trình làm khoa học, TS Huy đã quan sát chu trình của nước và nhận thấy, trong giai đoạn khoảng 10 năm thì tổng lượng nước đổ xuống đất liền tương đối ổn định. Nhưng sự phân bổ lượng nước lại ngày càng bất ổn: mưa giảm mạnh vào năm El-nino, nhưng năm La-nina có mưa dồn dập, gây ngập lụt nghiêm trọng. Thêm vào đó chu kỳ La-nina và El-nino liên tục, thay vì duy trì trạng thái trung tính. Trong thập kỷ qua, Trái đất đã trải qua 3 đợt El-nino.
Tình trạng nóng lên toàn cầu kết hợp El-nino sẽ tác động mạnh mẽ tới khu vực châu Á - Thái Bình Dương và các vùng cận nhiệt đới như Việt Nam. Sự luân phiên giữa mưa cực đoan và hạn hán đang phá vỡ cân bằng sinh thái, thúc đẩy quá trình thoái hóa đất, làm suy giảm năng suất nông nghiệp, đồng thời làm tăng nguy cơ thiên tai như lũ quét và sạt lở đất.
Ngày 6/5 vừa qua, Viện nghiên cứu Tác động khí hậu Potsdam công bố khái niệm khoa học “trí nhớ của hệ thống khí quyển” trong phân tích hoàn lưu gió mùa. Nghiên cứu chỉ ra, trải qua hàng triệu năm, hệ thống khí hậu toàn cầu đã thiết lập những quy luật vận hành gần như cố định. Hệ thống tri thức nông thôn toàn thế giới, theo đó, cũng gắn chặt với hệ thống khí tượng sau nhiều thế hệ làm nông dựa vào thời điểm gió mùa đến.
Tuy nhiên, sự tăng nhiệt đột ngột, kéo dài đang làm rối loạn hệ thống tự nhiên, khiến khí quyển bị “mất trí nhớ” và có khả năng ảnh hưởng sinh kế của 2 tỷ người.
Điển hình, cuối tháng 5 vừa qua, người dân Thủ đô Hà Nội đã trải nghiệm những ngày gió mùa mát mẻ như khi chớm đông. Thời tiết se lạnh giữa mùa hè cho thấy, các mùa truyền thống không còn vận hành theo quy luật cũ.
Hệ thống khí hậu trở nên rối loạn, các mùa vụ cũng buộc phải điều chỉnh. Nhưng TS Huy lưu ý, sự điều chỉnh này không ổn định do mùa vụ có thể “quay lại trí nhớ cũ”, rồi lại tiếp tục biến động.

Theo anh, vùng ĐBSCL dù đã thiết lập các hệ thống canh tác linh hoạt để đối phó với xâm nhập mặn và thay đổi cấu trúc mùa vụ, song thực tế vẫn chưa thích ứng bền vững. Đối mặt với xâm nhập mặn trong các năm El-nino, nhiều người đã bỏ lúa để chuyển sang nuôi tôm nước lợ, đầu tư xây dựng ao nuôi, hệ thống kỹ thuật phù hợp. Thế nhưng chỉ một năm sau, mưa lớn trở lại, độ mặn trong nước giảm khiến mô hình nuôi tôm không còn phù hợp nữa.
“Sự thay đổi thời tiết quá nhanh, thiếu ổn định đã đẩy nông dân vào tình thế bị động, loay hoay với bài toán mùa vụ”, TS Huy nói và kể tiếp câu chuyện Tây Nguyên.
Đã có thời điểm hồ tiêu là “cây vàng” của vùng đất đỏ bazan, mang lại thu nhập cao liên tục nhiều năm. Tuy nhiên, chỉ một mùa mưa kéo dài 2-3 tháng đã khiến toàn bộ vùng rễ của cây tiêu bị úng nước. Độ ẩm đất lên tới 80-90%, nấm bệnh bùng phát khiến hàng loạt vườn tiêu chết trắng. Người dân mất vốn liếng và phải chuyển đổi cây trồng. Rồi chỉ vài năm sau, giá tiêu lại tăng mạnh trở lại, càng khiến họ thêm lo lắng, tiếc nuối.


Chuyên gia phân tích, các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, hồ tiêu hay cây ăn quả đòi hỏi đầu tư đồng bộ xuyên suốt chuỗi giá trị, từ vùng nguyên liệu, vật tư đầu vào đến chế biến và xuất khẩu. Do thời gian sinh trưởng kéo dài, chỉ một mùa vụ thất bát do nắng hạn hay mưa lớn cũng có thể làm đổ vỡ khoản đầu tư mà nông dân đã tích cóp qua nhiều năm.
Dù có nhiều tiến bộ như nhà kính, nhà lưới, nhưng các mô hình này chỉ phù hợp với cây trồng ngắn ngày. Những loại cây công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như cà phê, hồ tiêu vẫn chủ yếu phụ thuộc vào khí hậu tự nhiên. Điều này khiến Việt Nam đứng trước nguy cơ đánh mất lợi thế cạnh tranh về các sản phẩm đặc hữu, vốn là thế mạnh của khí hậu nhiệt đới.
Khi thời tiết khô hạn, nguồn nước khan hiếm, sản xuất nông nghiệp thường là lĩnh vực bị ưu tiên sau cùng trong phân bổ nước (thường đứng sau nhu cầu sinh hoạt và sản xuất - kinh doanh). Tuy vậy, nhiều nông hộ vẫn chưa hình thành thói quen sử dụng nước tiết kiệm, thậm chí chấp nhận mua nước với giá cao nhưng lại tưới tràn lan, dẫn đến lãng phí.
Hiện đã có một số giải pháp kỹ thuật có thể áp dụng, như dùng bao nilon lớn trữ nước để làm chậm dòng chảy, giúp nước thấm dần vào đất, hoặc ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt nhằm tối ưu hóa hiệu quả tưới tiêu.
Về lâu dài, TS Huy đề cao sự cần thiết xây dựng kế hoạch đầu tư cho từng loại cây trồng, đồng thời quy hoạch vùng nguyên liệu hợp lý. Điều này sẽ giúp ngành sản xuất nông sản tăng cường khả năng dự báo, cảnh báo để thích nghi với khí hậu cực đoan.



Những diễn biến mới nhất đã đặt ra thách thức cho lĩnh vực truyền thông khí hậu, làm thế nào để chuyển tải thông tin dễ hiểu mà không thiếu hàm lượng khoa học. Theo TS Nguyễn Ngọc Huy, đây là điểm then chốt quyết định mức độ tiếp nhận của công chúng.
Nếu thông tin quá kỹ thuật, khô khan, người đọc sẽ bỏ qua; nhưng nếu đơn giản hóa quá mức, lại dễ dẫn đến hiểu sai bản chất vấn đề. Vì vậy, người làm truyền thông cần có khả năng “phiên dịch” giữa ngôn ngữ chuyên ngành và ngôn ngữ đại chúng, cung cấp góc nhìn đa chiều để thông tin xác đáng.
“Cảnh báo thiên tai là lĩnh vực nhạy cảm, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng triệu người. Do đó, người đưa tin cần đề cao trách nhiệm và sự cẩn trọng”, anh nhấn mạnh.


Trong truyền thông về khí hậu và thiên tai, việc “giật tít” hay thổi phồng hiện tượng là điều nên tránh. Thay vào đó, các bài báo môi trường, khí hậu, cảnh báo thiên tai nên cung cấp góc nhìn toàn diện với hàm lượng thông tin được kiểm chứng, xác minh. Chỉ khi thông tin được phân tích đa chiều, phản ánh đầy đủ ý kiến các bên liên quan, người dân mới hiểu rõ vấn đề, tránh hoang mang không cần thiết.
Một ví dụ điển hình là việc đưa tin về bão. TS Huy chỉ ra, nhiều tít báo hiện nay có xu hướng gây chú ý bằng cách chỉ nêu một phần sự kiện, không làm rõ địa điểm hay phạm vi ảnh hưởng. Điều này dễ khiến người đọc hiểu nhầm hoặc lo lắng quá mức. Trong bối cảnh người dùng thường chỉ lướt nhanh qua tiêu đề, báo chí càng cần chú trọng tính chính xác, rõ ràng và có phần giải thích để người đọc tiếp cận đúng bản chất vấn đề.
Về dài hạn, TS Nguyễn Ngọc Huy mong muốn Báo Nông nghiệp và Môi trường phát huy vai trò là cơ quan ngôn luận của ngành với các nhóm độc giả đa dạng, đa lĩnh vực và khả năng tiếp cận đến vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa.
TS Huy gợi ý, Báo nên xây dựng chuyên mục riêng về khoa học khí hậu, thời tiết và các giải pháp thích ứng thời tiết cực đoan. Chuyên mục này nên phát triển trên nền tảng điện tử, tập hợp các bài viết liên quan đến hệ thống khí hậu, dùng ngôn ngữ báo chí để “bình dân hóa” những báo cáo khoa học phức tạp, giúp công chúng dễ tiếp cận thông tin quan trọng.



Theo đó, phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường không chỉ là người đưa tin, mà còn “chuyên gia truyền thông” để chắt lọc, lý giải vấn đề theo cách gần gũi. Đây là cơ hội để báo chí thể hiện vai trò kiến tạo, cung cấp thông tin hữu ích cho cộng đồng, và chính cộng đồng sẽ được hưởng lợi từ thông tin ấy.
Hiểu biết về biến đổi khí hậu sẽ giúp chúng ta bình tĩnh hơn trước những biến động. Với các nhà báo, đặc biệt là lớp trẻ, việc trau dồi kiến thức sẽ giúp người cầm bút truyền tải thông tin đúng mực, biết cách đặt câu hỏi đúng, để mỗi con chữ mình viết ra đều có thể tạo tác động thực sự.
Từ kinh nghiệm của chuyên gia Huy Nguyễn, có thể thấy rằng, giữa thời tiết cực đoan, báo chí cần tăng cường năng lực truyền thông dự báo, cảnh báo khí hậu. Bởi niềm tin cộng đồng được nuôi dưỡng qua những dòng tin trung thực, tử tế và đầy trách nhiệm.