Hình thành chuỗi liên kết sản xuất trong ngành hàng thủy sản là xu hướng tất yếu. Các DN dẫn đầu kết nối hộ nuôi cá tra, tôm nguyên liệu cung ứng đến nhà máy.
An Giang đang triển khai Đề án cá tra 3 cấp, do Tập đoàn Nam Việt cùng các DN hạt nhân trong ngành hàng cá tra của Việt Nam tiên phong ứng dụng công nghệ cao, đầu tư qui mô lớn và sẵn sàng chia sẻ với các hộ nuôi cá tra trong vùng. Đây được xem là mô hình mẫu, thực hiện chuỗi liên kết SX từ ao nuôi đến nhà máy chế biến xuất khẩu được Bộ NN-PTNT đánh giá cao.
Ông Doãn Tới, Tổng Giám đốc Tập đoàn Nam Việt:
Dự án nuôi cá tra có quy mô 600 ha với tổng vốn đầu tư 4.000 tỷ đồng, được triển khai trên 3 ấp Bình Đức, Bình Quới, Bình Thới thuộc xã Bình Phú, huyện Châu Phú (An Giang). Trên tổng thể dự án được chia thành 2 khu. Khu SX giống cá tra 3 cấp chất lượng cao có diện tích 150 ha với vốn đầu tư 1.000 tỷ đồng, mỗi năm SX khoảng 360 triệu con giống cá tra chất lượng cao phục vụ cho các vùng nuôi của Nam Việt và số dư sẽ cung cấp ra thị trường. Khu công nghệ cao nuôi cá tra thương phẩm với 450 ha có vốn đầu tư 3.000 tỷ đồng, mỗi năm SX 200.000 tấn cá tra nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu.
Toàn bộ vùng nuôi đầu tư trang thiết bị hiện đại, trong đó công nghệ sục khí nano và chất xúc tác bakture (“Back to the nature” - trở về với thiên nhiên) để xử lý nước trong ao nuôi. Với công nghệ này, toàn bộ diện tích nuôi cá tra ở Bình Phú không cần xả thải nước ao nuôi ra môi trường, không cần nạo hút bùn đáy ao bằng phương pháp cơ học như hiện nay.
Ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Cty CP Thực phẩm Sao Ta:
Vừa qua, tôm, cá tra chịu tác động khách quan nặng nề như thiên tai, dịch bệnh... khiến sự kết nối khó chặt chẽ. Bởi tác động khách quan xảy ra ở một mắc xích sẽ ảnh hưởng toàn chuỗi. Thí dụ dịch bệnh, giảm nuôi dẫn tới cơ sở làm con giống, thức ăn bể kế hoạch. Còn nhà máy chế biến thiếu nguyên liệu, không giao hàng theo ký kết đúng hạn... Ngoài ra còn bị tác động yếu tố khó kiểm soát như sức cung của các cường quốc tôm, sức cầu tiêu dùng... nên chuỗi cá tôm đứt gãy, cũng là điều bình thường.
Vậy giải pháp nào để chuỗi hoạt động bền vững? Cái khó là mày mò giải pháp khả thi, hiệu quả. Hành lang pháp lý và ý thức chủ thể tham gia chuỗi đều còn khiếm khuyết. Các chủ thể tham gia chuỗi là bình đẳng nhưng cần một mắt xích (chủ thể) dẫn dắt mới có thể điều chỉnh hành vi các chủ thể (mắt xích) thống nhất, cùng một phía. Chủ thể đó là đầu ra sản phẩm, là cơ sở chế biến. Chủ thể phải thật sự lớn mạnh mới đảm nhận được vai trò dẫn dắt.
Hiện nay tôm, cá tra đã có DN chế biến lớn, nhưng chưa nhiều nên chưa thể hiện được tính dẫn dắt này. Thiết nghĩ sự vận động trong kinh doanh sẽ hình thành thêm nhiều DN lớn trong tương lai. Chính họ (các DN, nhà máy chế biến – PV) cũng hết sức cần thiết có nguyên liệu được kiểm soát suốt quá trình hình thành. Tôm, cá sản xuất theo chuỗi liên kết đáp ứng yêu cầu này.
Ông Nguyễn Sĩ Lâm, Giám đốc Sở NN-PTNT An Giang:
Đến nay An Giang có diện tích mặt nước nuôi cá tra thương phẩm là 1.226 ha, có hơn 6.580 hộ nuôi thủy sản, diện tích vùng nuôi khoảng 3.400 ha, sản lượng trên 500.000 tấn/năm. Trong đó, diện tích nuôi cá tra theo các tiêu chuẩn chất lượng đạt 477 ha, chiếm 39% diện tích nuôi cá tra (trong đó tiêu chuẩn ASC 91 ha, chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP đạt 386 ha), sản lượng 148.000 tấn/năm.
Tỉnh đã hình thành 3 chuỗi liên kết SX giống cá tra 3 cấp có sự tham gia Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II (cấp 1), Trung tâm Giống thủy sản và các cơ sở vệ tinh SX cá tra bột (cấp 2) và cấp 3 chi hội ương giống cá tra. Hàng năm SX, cung cấp khoảng 4,5-5 tỷ cá tra bột và khoảng 500-600 triệu cá tra giống.
Đến nay, chuỗi liên kết giống cá tra đã SX được 12 tỷ cá tra bột và 1,2 tỷ cá tra giống có truy xuất nguồn gốc. Chất lượng cá tra bột được đánh giá có chất lượng tốt hơn cá tra bột SX ngoài chuỗi liên kết: kích thước cá bột lớn hơn, tỷ lệ sống cá ương 15 ngày tuổi cao hơn…
QUẢNG NGÃI Quảng Ngãi đang chủ động liên kết với doanh nghiệp để phát triển vùng nguyên liệu mây nước, hướng tới mục tiêu xây dựng thương hiệu bền vững.
Đồng Tháp Xây dựng nông thôn mới gắn tái cơ cấu nông nghiệp ở Đồng Tháp thúc đẩy kinh tế nông thôn bền vững, nâng cao đời sống nông dân, tạo nền tảng xanh, giàu đẹp và hiện đại.
Đó là phát hiện nổi bật của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp qua khảo sát 275 chương trình, dự án về nông nghiệp sinh thái và các giải pháp tự nhiên.
Nông nghiệp sinh thái Việt Nam đang dịch chuyển từ những mô hình tại cơ sở đến khung chính sách và trở thành động lực kinh tế, cũng như chuẩn mực phát triển bền vững.
Kinh tế tập thể, hợp tác xã Đồng Tháp giai đoạn 2021-2025 phát triển mạnh, góp phần tái cơ cấu nông nghiệp, tạo việc làm ổn định và nâng cao thu nhập cho người dân.
Sau những thử nghiệm tại miền núi phía Bắc, Dự án A4P chứng tỏ hiệu quả cải tạo đất rõ rệt, góp phần tạo dấu ấn trên bản đồ chuyển đổi nông nghiệp toàn cầu.
LÀO CAI Trong nông nghiệp, một cuộc 'cách mạng xanh' đang được khởi động. Các mô hình sản xuất tập trung, quy mô lớn như 'cánh đồng một giống, 'làng rau an toàn'... sẽ được nhân rộng.
Đồng Tháp Tháp Mười tiên phong triển khai mô hình lúa chất lượng cao, giảm phát thải, nâng cao lợi nhuận cho nông dân, hướng đến tăng trưởng xanh và khẳng định thương hiệu gạo Việt.
Hải Phòng Nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn hay nông nghiệp tử tế, gọi thế nào cũng được, với tôi chỉ là một: Làm sao cho đất, nước, cây, con và người cùng khỏe.
Dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản hiện vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, với tốc độ lây lan nhanh, phạm vi rộng và tỷ lệ tử vong cao, gây tổn thất lớn cho ngành.
Sớm kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực tổ khuyến nông cộng đồng, phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong chính quyền 2 cấp vùng ĐBSCL.
Áp dụng công nghệ nuôi trùn quế từ bùn thải, Cao su Bình Long biến gánh nặng môi trường thành phân hữu cơ giàu dinh dưỡng, khẳng định chiến lược tăng trưởng xanh, bền vững.
Các xã phía nam tỉnh Quảng Trị, tràm năm gân được đưa vào trồng với diện tích ngày càng lớn, tạo ra vùng nguyên liệu ổn định phát triển nghề chưng cất tinh dầu.