Thứ năm 08/05/2025 - 09:35
Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt
Cốt cách người Việt qua lối sống ăn mặc thong dong
Thứ Năm 08/05/2025 - 09:33
Cốt cách người Việt được tác giả Đỗ Quang Tuấn Hoàng tìm hiểu và phác thảo những nét sinh động trong cuốn sách ‘Việt Nam ăn mặc thong dong’.

Tác giả Đỗ Quang Tuấn Hoàng.
Cốt cách người Việt được hình thành theo chiều dài lịch sử khai hoang, mở làng, lập ấp. Những bằng chứng khảo cổ cho thấy, nghề dệt vải ở Việt Nam có từ thời đại Đá mới, cách ngày nay khoảng 6.000 năm. Với 54 dân tộc cư trú ở những môi trường sinh thái đa dạng, cốt cách người Việt được vun bồi cùng những tri thức bản địa độc đáo.
Sau các cuốn sách “Vắt qua những ngàn mây”, “Đi suốt đường vui”, “Ngang dọc đường trà”, tác giả Đỗ Quang Tuấn Hoàng lại có thêm “Việt Nam ăn mặc thong dong” nỗ lực giới thiệu những nét đặc trưng góp phần làm nên cốt cách người Việt. Ý tưởng biên soạn “Việt Nam ăn mặc thong dong” được tác giả Đỗ Quang Tuấn Hoàng lấy cảm hứng từ thông điệp “sứ mệnh của tôi là nói lên vẻ đẹp của thế giới này và xem chúng ta học được gì từ đó” mà triết gia Nhật Bản Soetsu Yanagi (1889 – 1961) trình bày trong tác phẩm “The Beauty of Everyday Things” (Vẻ đẹp của những vật dụng hằng ngày)
Văn hóa bản địa của một cộng đồng thể hiện sinh động nhất ở nghề dệt vải, thêu, vẽ hoa văn trên trang phục nữ. Ca dao về hạnh phúc lứa đôi của người Việt có câu: “Em về dệt cửi trên khung/ Để anh đọc sách cùng chung một đèn/ Vải em, em bán lấy tiền/ Em mua lụa liền may áo cho anh/ Trong thì lót tím lót xanh/ Ngoài thêu đôi bướm lượn cành phù dung.
Để nói về những gì tốt đẹp, người Việt ví von “như dệt gấm thêu hoa”. Việc gì khó thực hiện, người ta ví “như mò kim đáy biển”. Còn chỉ việc người khác đồn thổi làm sai lệch sự thật, người ta dùng từ “thêu dệt”. Cả khía cạnh tốt và xấu, người Việt đều dùng từ của lĩnh vực dệt may. Đủ thấy nó quan trọng đến như thế nào trong đời sống thường ngày và tâm thức của người Việt.
Vì vậy, không phải ngẫu nhiên, tác giả Đỗ Quang Tuấn Hoàng dành nhiều sự quan tâm cho váy áo của các dân tộc Việt Nam. Người Dao tiền không chỉ thêu những hình ảnh thường thấy trong sinh hoạt hằng ngày mà còn thêu cả hình tổ tiên lên áo để nhắc nhở con cháu hãy luôn nhớ và kính trọng tổ tiên của mình. Mô-típ thường thấy là hình con chó đơn và hình chó đôi, tần suất hình con chó không nhiều mà được điểm xuyết bằng những hình thêu nhỏ nơi gấu áo phụ nữ, áo của thầy cúng, người thụ lễ mặc trong lễ cấp sắc của đàn ông Dao tiền. Có trang phục thêu hình hoa tám cánh và hình con chó, có trang phục thêu hình đôi chó và đôi chim.
Người Thái quan niệm ở đời có ba thứ đẹp nhất, đó là: ánh nắng cài vào vách núi đá; cánh đồng to, đất tốt vòng quanh chân bản; và cô gái khéo dệt vải, thêu khăn. Tương tự, với người Hà Nhì, nhóm mà phụ nữ mặc trang phục màu đỏ, thêu hoa văn sặc sỡ thì gọi là Hà Nhì hoa; nhóm mà phụ nữ mặc trang phục màu đen thì gọi là Hà Nhì đen.
Lý giải việc mặc trang phục chủ yếu là màu chàm của người Hà Nhì ở Bát Xát (Lào Cai) và Phong Thổ (Lai Châu), các cụ kể rằng: Trong đợt di cư từ Trung Quốc xuống phương Nam, nhóm đi sau gồm chủ yếu là người già, phụ nữ yếu sức và trẻ em nên đi rất chậm. Nhóm đi trước chủ yếu là trai tráng và phụ nữ khỏe mạnh, ngoài việc đi nhanh, họ còn mang hết vật dụng, thuốc nhuộm, mẫu hoa văn thêu. Nhóm đi sau chỉ còn giữ lại công thức làm nhà trình tường, làm cao chàm và một ít cách thêu hoa văn đơn giản. Vì vậy, họ chỉ mặc trang phục màu chàm là chính.

Cuốn sách khơi dậy ý thức văn hóa cội nguồn người Việt.
Theo quan niệm của người Mông, người chết không mặc trang phục lanh, tổ tiên sẽ không nhận. Dân ca Mông tự sự: “Tổ tiên có hỏi mình ở trên trần gian về được cái gì đem theo/ Thì mình thưa: Con ở trần gian về, cái gì chẳng được/ Được một chiếc khăn lanh, một chiếc áo lanh/ Được một chiếc quần lanh, một chiếc thắt lưng lanh/ Một đôi giày lanh, một đôi xà cạp lanh”.
Tham dự một đám ma của người Mông, cứ nhìn cái sào phơi quần áo trên đầu quan tài của người chết là biết họ có bao nhiêu con. Bởi mỗi người con đều làm cho bố mẹ một bộ quần áo mới bằng vải lanh để dành mặc khi về với tổ tiên.
Gia đình người Mông có ba vật quý phải mang theo khi di cư, đó là: cối đá xay ngô, váy phụ nữ (của bà chủ nhà) và ống bương đựng hạt lúa, ngô, lanh. Váy Mông là biểu tượng văn hóa, người H’mông không có chữ, chữ được thêu thành váy. Trên tấm váy diễn tả trận chiến của người Mông chống người Hán cướp đất. Trên thân váy có ba băng dải dọc là ba con sông người Mông đã vượt qua trên đường thiên di đến phương Nam...
Phụ kiện, trang sức cũng vậy, ngoài chức năng thể hiện thị hiếu thẩm mỹ của mỗi người, còn là tín vật tình yêu, là chuyện tâm linh. Đối với người Ede, chiếc vòng đồng không chỉ là vật trang sức mà còn gắn với văn hóa tâm linh, là vật quan trọng kết nối với thần linh thay lời cầu xin hay hứa hẹn. Chiếc vòng đồng theo suốt cuộc đời người Ede. Còn với người Lự, nếu nhà có người chết thì trong vòng một năm không được đeo hoa tai.
Có thể nói, cùng với “ăn” thì “mặc” thể hiện rõ nét nhất cốt cách người Việt. Ẩn sau vải vóc và trang phục, trang sức là một lịch sử hấp dẫn của nhân loại. Tác giả Đỗ Quang Tuấn Hoàng bày tỏ: “Tôi rất đam mê nghiên cứu trang phục, trang sức, nhất là ở khía cạnh nhân học, và xu thế thời trang chậm. Người Việt hiện nay không chỉ bảo tồn trang phục truyền thống, mà còn cố gắng thích nghi bằng cách sử dụng những họa tiết hoa văn trên trang phục truyền thống để đưa vào thời trang đường phố, làm ốp lưng điện thoại thông minh, làm bao bì sản phẩm…
Thế nhưng tôi cũng rất buồn với thực trạng lớp trẻ mỗi năm chỉ mặc trang phục truyền thống vài lần để chụp ảnh. Nhiều tộc người không còn mặc trang phục truyền thống. Nhiều tộc người chỉ người già mới biết thêu hoa văn lên vải, chạm bạc làm trang sức”.
Link nội dung: https://nongnghiepmoitruong.vn/tri-thuc-nong-dan/cot-cach-nguoi-viet-qua-loi-song-an-mac-thong-dong-d752030.html