
Những năm gần đây, người dân TP.HCM gần như đã quen với cảnh “cứ mưa là ngập”. Từ trung tâm đến vùng ven, từ những tuyến đường lớn như Nguyễn Hữu Cảnh, Ung Văn Khiêm… cho tới các ngõ hẻm nhỏ ở Bình Thạnh, Gò Vấp, chỉ cần một trận mưa lớn kéo dài hơn nửa giờ, mặt đường đã biến thành sông.
Xe cộ chết máy, người dân bì bõm trong dòng nước đục, rác thải nổi lềnh bềnh theo dòng chảy. Tình trạng này diễn ra thường xuyên đến mức nhiều gia đình phải chuẩn bị sẵn bao cát, ván chắn ngay cửa nhà, còn tiểu thương thì loay hoay với kệ hàng kê cao để “chạy nước” mỗi khi trời đổ mưa.
Năm 2025, TP.HCM ghi nhận một loạt đợt mưa lịch sử, cả về tần suất, thời gian và lượng nước mưa đo được. Đơn cử, hồi trung tuần tháng 5/2025, trong vòng 90 phút, trạm An Nhơn Tây ghi nhận lượng mưa lên tới 196 mm và tổng cộng cả đợt đạt 230 mm. Hàng loạt tuyến đường ngập sâu, xe cộ chết máy, nhiều hộ dân vùng ven phải bì bõm lội nước về nhà. “Tôi đi làm ca đêm về thì nước đã ngập gần đến đầu gối, phải gửi xe ngoài đường, lội bộ cả cây số mới về tới nhà,” anh Trần Thanh Tùng, công nhân một xưởng may tại xã An Phú Đông kể lại.


Trận mưa cực đoan này không còn là hiện tượng hiếm. Ông Lê Đình Quyết, Trưởng phòng Dự báo Đài Khí tượng Thủy văn Nam Bộ và Tây Nguyên, cho biết: “Trong vòng 10 năm qua, tần suất mưa cực đoan trên 100 mm/ngày ở TP.HCM tăng rõ rệt. Nếu trước đây trung bình chỉ vài trận mỗi năm thì nay, con số này có thể gấp đôi. Mưa lớn bất thường kết hợp với triều cường khiến hệ thống thoát nước bị quá tải, gây ra ngập diện rộng”.
Sự cộng hưởng giữa mưa cực đoan, triều cường và xả lũ từ thượng nguồn khiến TP.HCM thường xuyên rơi vào cảnh “ngập chồng ngập”. Năm 2018, bão Usagi từng đổ xuống lượng mưa 300 - 400 mm chỉ trong vài giờ, biến trung tâm thành phố thành biển nước. Đến năm 2023, triều cường tại trạm Phú An đạt +1,74 m, gần mức báo động 3, khiến nhiều tuyến đường quận 7, Nhà Bè, Bình Thạnh ngập sâu.
Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới năm 2020 cảnh báo: 23% diện tích TP.HCM có nguy cơ ngập nặng khi mực nước biển dâng 100 cm. Thiệt hại kinh tế từ ngập lụt ước tính 1.500 tỷ đồng mỗi năm. Điều đáng lo là nước biển dâng không còn là kịch bản xa vời, mà diễn tiến ngay từng năm. Cùng lúc, đô thị hóa nhanh chóng khiến diện tích kênh rạch bị lấn chiếm, khả năng thoát nước tự nhiên ngày càng suy giảm.


Ông Nguyễn Đức Vũ, Chi Cục trưởng Chi Cục Thủy lợi TP.HCM, nhấn mạnh: “Hệ thống thoát nước của TP.HCM được thiết kế từ nhiều thập niên trước, chỉ đáp ứng được lượng mưa 80 - 100 mm trong 3 giờ. Trong khi hiện nay, những trận mưa 150 - 200 mm trong 1 - 2 giờ xuất hiện ngày càng nhiều. Rõ ràng, hạ tầng hiện hữu không còn đủ sức chống chịu”.
Để khắc phục, thành phố đã đầu tư hàng loạt dự án chống ngập quy mô lớn. Tiêu biểu là dự án ngăn triều 10.000 tỷ đồng do Tập đoàn Trung Nam thực hiện, với 6 cống kiểm soát triều lớn và 7,8 km đê bao, kỳ vọng bảo vệ 6,5 triệu dân khu trung tâm. Tuy nhiên, đến nay dự án mới đạt hơn 90% khối lượng và phải lùi tiến độ hoàn thành sang 2027 do thiếu vốn và vướng mắc pháp lý. Ngoài ra, nhiều dự án cải tạo kênh rạch như kênh Tham Lương - Bến Cát hay rạch Xuyên Tâm vẫn ì ạch, chưa thể phát huy tác dụng.
Ông Nguyễn Xuân Hoàng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM, nhìn nhận: “Chúng ta không thể chỉ chạy theo từng điểm ngập. Thành phố cần một quy hoạch tổng thể chống ngập, kết hợp giải pháp công trình và phi công trình, bao gồm cả quản lý không gian đô thị, tái tạo kênh rạch, tăng diện tích thấm nước. Ngập ở TP.HCM không thể giải quyết triệt để nếu không có cách tiếp cận hệ thống và liên vùng”.
Còn chuyên gia thủy lợi Phan Khánh thì cho rằng, việc đầu tư máy bơm siêu lớn công suất 97.000 m³/giờ từng được đề xuất là chưa phù hợp với đặc thù thành phố. Theo ông, nguyên tắc thủy lợi phải là “tưới tập trung, tiêu phân tán”, nghĩa là cần nhiều giải pháp phân tán, xử lý tại chỗ, thay vì dồn nước một chỗ rồi bơm đi. Ông gợi ý việc lắp đặt máy bơm công suất trung bình tại các kênh chính như Thị Nghè, Lò Gốm, kết hợp với máy bơm dã chiến có thể triển khai ngay tại các điểm ngập cục bộ, sẽ thực tế và hiệu quả hơn.

Thực tế, ý kiến của người dân cũng cho thấy mức độ bức xúc ngày càng lớn. Bà Nguyễn Thị Minh, tiểu thương chợ quận 8, bày tỏ: “Cứ mưa lớn là nước dâng vào tận sạp. Hàng hóa ướt hỏng, chúng tôi thiệt hại nặng. Mỗi năm ngập vài lần thì coi như mất vốn”. Trong khi đó, anh Nguyễn Văn Hậu, cư dân phường Thảo Điền lo ngại: “Nhà tôi cứ mưa lớn là bơm thoát nước chạy suốt đêm. Ngập kéo dài thì nhà xuống cấp nhanh, chưa kể rác trôi nổi bốc mùi, ảnh hưởng sức khỏe”.
Chuyên gia thủy lợi Phan Khánh bổ sung: “Ngập ở TP.HCM không chỉ do hạ tầng yếu mà còn do thiếu phối hợp liên vùng. Khi hồ Dầu Tiếng, Trị An xả nước, hạ du TP.HCM chịu ảnh hưởng trực tiếp. Nếu không có cơ chế điều hành chung giữa các tỉnh, thì dù thành phố đầu tư bao nhiêu, nguy cơ ngập vẫn còn”.
Ngập úng không chỉ là một hiện tượng thời tiết mà đã trở thành một “nỗi sợ đô thị”. Nó làm gián đoạn giao thông, hư hỏng tài sản, phát sinh dịch bệnh, giảm năng suất lao động và gây thiệt hại kinh tế lớn. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, TP.HCM đang phải đối mặt với một bài toán nan giải: làm thế nào để vừa kiểm soát ngập trước mắt, vừa xây dựng một thành phố có khả năng chống chịu lâu dài.

Thành phố đang bước vào giai đoạn cấp bách, khi những hiểm họa như nắng nóng đô thị, sụt lún đất và sạt lở bờ sông, bờ biển ngày càng cộng hưởng, đẩy tốc độ rủi ro nhanh hơn cả dự báo.
Nếu ngập úng là nỗi lo mùa mưa, thì nắng nóng là thử thách mùa khô. Tháng 4/2025, nhiều khu vực nội thành ghi nhận nền nhiệt ngoài trời lên tới 38 - 39°C, cao hơn trung bình nhiều năm 2 -3°C. Hiệu ứng đảo nhiệt đô thị khiến tình hình nghiêm trọng hơn. Vùng trung tâm vốn bị “bê tông hóa” dày đặc thường nóng hơn vùng ven 3 - 4°C. Thiếu cây xanh, thiếu mặt nước khiến nhiệt tích tụ ban ngày và tỏa ra vào ban đêm, làm tình trạng nóng bức kéo dài 24/24.
Hệ quả đã hiện hữu. Thống kê từ ngành Y tế TP.HCM cho thấy, số ca cấp cứu vì say nắng, kiệt sức trong đợt nắng nóng giai đoạn 2019 - 2024 tăng khoảng 30% so với trước đây. Người già, trẻ nhỏ, công nhân lao động ngoài trời là nhóm dễ tổn thương nhất. Nhiệt độ cao cũng làm gia tăng bệnh tim mạch, huyết áp, bệnh hô hấp, giảm năng suất lao động và kéo theo chi phí y tế.
Ở khía cạnh môi trường, nắng nóng cực đoan làm tăng nhu cầu điện cho điều hòa, gây áp lực lên hệ thống điện vốn đã quá tải. Nó còn thúc đẩy quá trình bốc hơi, làm giảm nguồn nước ngọt vốn đang khan hiếm. Giải pháp rõ ràng là mở rộng cây xanh và không gian công cộng. Thế nhưng diện tích cây xanh bình quân của TP.HCM mới đạt dưới 1m²/ người, thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn 6 - 8m²/ người và càng khiêm tốn nếu so với Singapore là 30m²/ người.


Tuy nhiên, việc phát triển không gian xanh còn rất hạn chế do áp lực quỹ đất. Thành phố đang nghiên cứu mô hình công viên tuyến tính dọc kênh rạch, song song với khuyến khích giải pháp xanh hóa trong từng công trình, từ mái nhà xanh, tường phủ cây cho đến vật liệu phản xạ nhiệt. Nếu không kịp thời hành động, TP.HCM sẽ phải đối diện nguy cơ trở thành một “thành phố nhiệt”, với gánh nặng y tế, kinh tế và môi trường ngày càng nặng nề.
Không chỉ nóng bức, TP.HCM còn đối diện một mối nguy âm thầm nhưng dai dẳng: sạt lở bờ sông, kênh rạch. Hiện, thành phố có hơn 40 điểm sạt lở nguy hiểm, tập trung tại các quận ven sông như Thủ Đức, Bình Thạnh, Nhà Bè, Củ Chi và Hóc Môn. Tốc độ lấn vào đất liền trung bình 0,5 - 1 m mỗi năm, có nơi chỉ qua một mùa mưa, bờ đã bị khoét sâu hàng mét, cuốn trôi cả tài sản và sinh kế.
Gần đây nhất là sự cố sạt lở nghiêm trọng dài gần 70m tại bờ bao sông Sài Gòn (xã Bình Mỹ), khiến nhịp sống của người dân nơi đây vẫn chưa thể trở lại bình thường. Gia đình bà Nguyễn Thị Thắm là một trong những nạn nhân. Bà Thắm kể: “Năm ngoái, bờ sông cách nhà tôi gần mười mấy mét, giờ chỉ còn chưa đầy 5m”. Không riêng gì bà Thắm, hàng trăm hộ dân ven kênh rạch đang sống trong cảnh thấp thỏm, vừa lo mất đất, vừa lo tính mạng.
Nguyên nhân sạt lở đến từ nhiều phía: dòng chảy thay đổi do thủy triều và mưa lũ, tàu thuyền lưu thông dày đặc, khai thác cát trái phép, cộng với việc bê tông hóa mặt đất khiến nước tập trung chảy xiết xuống kênh rạch. Biến đổi khí hậu càng làm tình trạng trầm trọng khi mưa lớn và triều cường diễn ra với tần suất cao hơn, xói lở ngày càng mạnh.
Ông Nguyễn Đức Vũ, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi TP.HCM, cảnh báo rằng sạt lở không chỉ là nguy cơ mất đất dân sinh mà còn đe dọa trực tiếp đến hạ tầng giao thông và hệ thống đê bao chống ngập. Nếu không kiểm soát tốt, hàng loạt tuyến đường ven sông, bến cảng và khu dân cư sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.

Trong khi đó, để hạn chế sạt lở, thành phố cần có chiến lược đồng bộ: cắm mốc hành lang bảo vệ bờ sông, kiên quyết di dời dân ra khỏi khu vực nguy hiểm, kết hợp với giải pháp sinh thái như trồng tre, dừa nước, phục hồi vành đai xanh ven sông.
Hơn thế nữa, TP.HCM còn đang phải đối diện thách thức nghiêm trọng từ tình trạng sụt lún đất, kết hợp cùng triều cường và biến đổi khí hậu, khiến nguy cơ ngập lụt ngày càng lớn. Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển bền vững (trường Đại học Tài Nguyên và Môi trường) bằng công nghệ InSAR cho thấy, trong hơn ba thập kỷ qua, thành phố đã sụt lún tích lũy tới 100cm. Hiện, tốc độ sụt lún trung bình dao động 2 - 5cm mỗi năm, riêng tại những khu vực tập trung công trình lớn có thể lên tới 7 - 8cm, gấp nhiều lần tốc độ nước biển dâng.
Các điểm nóng về sụt lún được ghi nhận dọc sông Sài Gòn từ cầu Sài Gòn đến cầu Ba Son, các quận cũ như Bình Tân, Bình Chánh và nhiều khu đô thị mới. Nguyên nhân chính đến từ nền địa chất yếu, quá trình đô thị hóa nhanh cùng tải trọng từ xây dựng, giao thông. Việc khai thác nước ngầm trước đây cũng từng gây lún mạnh ở Gò Vấp, Tân Bình, quận 12 (cũ), Củ Chi, dù hiện nay đã được hạn chế.
PGS.TS Lê Trung Chơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển bền vững, nhận định: “Sụt lún là hiểm họa kép khi cộng hưởng với triều cường và nước biển dâng, tác động trực tiếp đến hạ tầng và đời sống dân cư”.
Ông nhấn mạnh, cần thiết lập hệ thống giám sát thường xuyên, xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung và trung tâm mô phỏng biến dạng mặt đất để dự báo, cảnh báo kịp thời. Bên cạnh đó, việc kiểm soát chặt khai thác nước ngầm và quy hoạch đô thị phù hợp với điều kiện địa chất là giải pháp bắt buộc để bảo đảm an toàn lâu dài cho thành phố.


Nhiều năm trở lại đây, TP.HCM không chỉ đối diện với những cơn mưa cực đoan mà còn phải gồng mình trước sức ép từ xâm nhập mặn và triều cường. Đây được xem là hai “gọng kìm” đang siết chặt thành phố, đặc biệt tại các khu vực ven sông và ven biển. Nếu ngập úng gây khổ sở trong mùa mưa, thì mặn và triều lại khiến mùa khô trở thành nỗi lo thường trực.
“Nếu không kiểm soát được triều, TP.HCM sẽ còn chìm sâu hơn trong ngập lụt. Đây không chỉ là câu chuyện hạ tầng, mà là vấn đề sinh tồn của cả đô thị”, TS Võ Kim Cương, nguyên Phó Kiến trúc sư trưởng TP.HCM.
Mỗi dịp cuối năm, khi triều cường đạt đỉnh, nhiều tuyến đường của TP.HCM chìm sâu trong nước. Năm 2023, mực triều tại trạm Phú An đạt +1,74 m, gần ngưỡng báo động 3. Tại Nhà Bè, triều nhiều lần vượt +1,70 m, gây ngập nặng ở các tuyến đường Lê Văn Lương, Nguyễn Bình, Huỳnh Tấn Phát.
Ông Nguyễn Văn Hùng, chủ tiệm sửa xe trên đường Lê Văn Lương, than thở: “Cứ triều lên là nước vào ngập tận nhà. Xe chết máy thì khách đông, nhưng đồ nghề hỏng, nhà cửa xuống cấp, mỗi năm mất cả chục triệu đồng sửa chữa”. Theo thống kê, triều cường gây ngập từ 20 - 30 điểm mỗi năm trên địa bàn thành phố, tác động trực tiếp đến đời sống hàng trăm nghìn hộ dân.
Không chỉ dừng ở những đợt ngập tạm thời, triều cường còn kéo theo hệ lụy lâu dài đối với hạ tầng và kinh tế. Nhiều tuyến đường, nền nhà bị hư hỏng, bong tróc, hệ thống cống rãnh xuống cấp nhanh chóng. Ngân sách thành phố phải chi hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm cho công tác duy tu, chống ngập và khắc phục hậu quả.


Các chuyên gia cảnh báo, cùng với tình trạng sụt lún đất trung bình 2 - 5cm mỗi năm (có nơi lên 8cm), tác động của cùng một mực triều sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn. TS Võ Kim Cương, Nguyên phó Kiến trúc sư trưởng TP.HCM nhấn mạnh: “Nếu không kiểm soát được triều, TP.HCM sẽ còn chìm sâu hơn trong ngập lụt. Đây không chỉ là câu chuyện hạ tầng, mà là vấn đề sinh tồn của cả đô thị”.
Xâm nhập mặn cũng đang ngày càng tiến sát hơn vào nội đô. Trong đợt hạn mặn lịch sử năm 2016, độ mặn 4‰ đã xâm nhập tới cầu Ông Nhiêu (Nhà Bè), chỉ cách trung tâm thành phố hơn 20 km. Mùa khô 2020 và 2024, độ mặn tại sông Soài Rạp và Nhà Bè nhiều lần vượt ngưỡng 4‰, ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn nước sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Thống kê cho thấy, gần 5.000 ha đất nông nghiệp tại Nhà Bè và Cần Giờ thường xuyên bị nhiễm mặn, trong đó diện tích rau màu, cây ăn quả giảm đáng kể do không thích ứng kịp.
Các con số thiệt hại cho thấy sức nặng của thách thức kép này. Theo báo cáo, riêng tình trạng ngập úng và xâm nhập mặn đã làm TP.HCM thiệt hại khoảng 1.500 tỷ đồng/năm. Nếu mực nước biển dâng thêm 1 m, 23% diện tích thành phố sẽ bị ảnh hưởng, hàng triệu người dân đối mặt nguy cơ mất nơi ở và sinh kế.
Để ứng phó, thành phố đã triển khai nhiều dự án công trình lớn. Dự án chống ngập 10.000 tỷ đồng với 6 cống kiểm soát triều và 7,8 km đê bao được kỳ vọng bảo vệ 6,5 triệu dân khu trung tâm. Tuy nhiên, dự án vẫn chậm tiến độ, chưa thể phát huy hiệu quả. Trong khi đó, “tấm lá chắn xanh” là rừng ngập mặn Cần Giờ với hơn 70.000 ha đang suy yếu dần, mất khoảng 20 - 30ha mỗi năm do xói lở và tác động từ sóng tàu thuyền.

Ông Nguyễn Đức Vũ, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi TP.HCM nhận định, ngập do mưa có thể khắc phục từng phần, nhưng triều và mặn mới là thách thức lâu dài. Nếu không kiểm soát tốt, thành phố sẽ chịu tác động trực tiếp đến cả nông nghiệp, sinh hoạt và phát triển đô thị. “Phải có giải pháp tổng thể, liên kết vùng, không thể chỉ dựa vào công trình. Quản lý nước, bảo vệ kênh rạch và phục hồi hệ sinh thái là chìa khóa để tăng khả năng chống chịu”, ông Vũ cho hay.
Xâm nhập mặn và triều cường vì vậy không chỉ là câu chuyện của Nhà Bè, Cần Giờ hay những tuyến đường thường xuyên ngập, mà đã trở thành vấn đề sống còn của cả đô thị hơn 10 triệu dân. Đây là phép thử khắc nghiệt cho năng lực quản lý đô thị, và cũng là thước đo cho sự thích ứng với biến đổi khí hậu của TP.HCM trong những thập kỷ tới.
TP.HCM đã bắt đầu áp dụng nhiều giải pháp từ nhiều năm nay: xây dựng cống ngăn mặn, tăng cường dự báo, tái sử dụng nước thải đã qua xử lý. Nhưng thách thức vẫn ở phía trước. Dân số tăng, nhu cầu nước sinh hoạt, công nghiệp ngày càng lớn. Trong khi đó, nguồn nước sông đang chịu cạnh tranh gay gắt giữa thủy điện, nông nghiệp và công nghiệp.
Một kịch bản xấu đặt ra: nếu hạn hán kéo dài và mặn xâm nhập sâu, thành phố có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng nước ngọt. Khi đó, chi phí xử lý nước sẽ tăng cao, ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống và sản xuất.


Sau khi sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, TP.HCM (mới) trở thành siêu đô thị đa địa hình: vừa có đồng bằng thấp trũng, vừa có ven biển, vừa có trung tâm công nghiệp hóa cao. Điều này đồng nghĩa với việc thành phố phải đối diện cùng lúc nhiều loại hình thiên tai: bão, triều cường, mưa cực đoan, xâm nhập mặn, sạt lở.
Thách thức quản trị của TP.HCM rất lớn! Hiện các kịch bản ứng phó thường chỉ mang tính cục bộ theo từng tỉnh, thành và chưa có một “bản đồ rủi ro liên vùng” đủ mạnh để điều phối ứng phó từ thượng nguồn đến hạ du. Hệ quả là khi xảy ra thiên tai lớn, phản ứng có thể bị chậm trễ, thiếu đồng bộ.
Trong khi đó, các dự án thích ứng khí hậu đòi hỏi nguồn lực khổng lồ. Dự án ngăn triều 10.000 tỷ là ví dụ điển hình: kéo dài gần 10 năm, đến nay vẫn chưa hoàn thành. Theo tính toán của Viện Quy hoạch Xây dựng, để chống ngập và thích ứng biến đổi khí hậu, TP.HCM cần đầu tư ít nhất 500.000 tỷ đồng trong 20 năm tới - con số vượt xa khả năng ngân sách hiện tại.


Để giải bài toán này, thành phố đang tìm cách đa dạng hóa nguồn vốn: từ ngân sách, vốn ODA, đến hợp tác công - tư (PPP). Đặc biệt, theo Nghị quyết 98/2023/QH15, TP.HCM được phép thí điểm cơ chế giao dịch tín chỉ carbon, mở ra hướng huy động vốn mới. Tuy nhiên, cơ chế này còn mới mẻ, nhiều thủ tục chưa rõ, chưa thể phát huy ngay.
Nhiều chuyên gia cùng chung nhận định rằng: Không thể trông chờ mãi vào ngân sách. Muốn chống ngập, thích ứng khí hậu, thành phố cần biến rủi ro thành cơ hội, thu hút đầu tư vào công nghệ xanh, năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn. Khi doanh nghiệp được tham gia, vừa có vốn, vừa có công nghệ, mới mong đi nhanh.
Nhìn ra khu vực, Bangkok (Thái Lan) và Manila (Philippines) đều đang đối diện tình trạng tương tự: đô thị ven biển, dân số đông, dễ ngập. Kinh nghiệm từ họ cho thấy, nếu không có một cơ chế tài chính mạnh mẽ và quản trị liên vùng chặt chẽ, thì mọi công trình dù lớn đến đâu cũng khó theo kịp biến đổi khí hậu.
TP.HCM đang đứng trước một ngã rẽ lớn: hoặc chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, hoặc bị cuốn theo những rủi ro ngày càng cực đoan. Ngập úng, nắng nóng, xâm nhập mặn, suy thoái sinh thái, áp lực quản trị và tài chính… tất cả đang cùng lúc đặt thành phố vào thế “chống chọi với nước, lửa và thời gian”.
Những nỗ lực như dự án ngăn triều 10.000 tỷ, trồng rừng ngập mặn, mở rộng cây xanh, phát triển tín chỉ carbon… là bước đi đúng hướng. Nhưng con đường phía trước đòi hỏi sự phối hợp mạnh mẽ hơn giữa chính quyền, doanh nghiệp, cộng đồng và quốc tế.
Nếu TP.HCM thành công, thành phố không chỉ bảo vệ được hơn 10 triệu dân, mà còn trở thành biểu tượng của một đô thị xanh, kiên cường, đóng góp quan trọng vào chiến lược quốc gia về phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu.
