Thủy lợi Việt Nam – Dòng chảy từ lịch sử đến hiện đại

Từ dòng nước của lịch sử đến dòng nước của hôm nay, thủy lợi Việt Nam luôn mang trong mình sứ mệnh lớn lao - làm chủ nước để phát triển đất nước.

Quỳnh Anh  | 08:56 12/11/2025

Thủy lợi Việt Nam – Dòng chảy từ lịch sử đến hiện đại

Tự động

Thủy lợi Việt Nam – Dòng chảy từ lịch sử đến hiện đại

Băng GS.TS Đào Xuân Học, Lịch sử dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với nước và công cuộc trị thủy…”

MC:

Vâng, thưa quý vị! Như lời chia sẻ của GS.TS Đào Xuân Học – nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam – lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của nước, của trị thủy, của những con người biết chế ngự thiên nhiên để dựng xây cuộc sống.

Quả thật, ở đất nước có hơn 2.300 con sông lớn nhỏ, nước không chỉ là nguồn sống mà còn là thử thách và cũng là động lực của sáng tạo, của khát vọng vươn lên. Và hành trình của Thủy lợi Việt Nam bắt đầu từ những dấu ấn sơ khai thời Văn Lang - Âu Lạc, tiếp nối bằng công cuộc đắp đê ngăn lũ vĩ đại ở Đồng bằng sông Hồng rồi đến nay là những công trình đa mục tiêu mang tầm quốc gia – minh chứng cho trí tuệ, nghị lực và khát vọng của dân tộc.

Ngay từ buổi đầu dựng nước, các vua Hùng đã coi việc dẫn nước, đắp đê, khai hoang là nền tảng cho sinh tồn và phát triển. Những công trình thủy lợi đầu tiên, tuy thô sơ nhưng chứa đựng trí tuệ của người Việt – biết “thuận thiên” để làm nên mùa vàng.

Đến thời Lý – Trần – Lê, trị thủy đã trở thành quốc sách. Các triều đại liên tiếp ban hành quy định về đê điều, tổ chức các đội dân công chuyên đắp đê, nạo vét kênh mương, phòng chống lũ lụt. Những con đê sông Hồng, sông Đáy, sông Mã… dần hình thành, chạy dài như dải lụa uốn quanh đồng bằng Bắc Bộ – “trường thành nước” bảo vệ mùa màng, nuôi sống cả nền nông nghiệp lúa nước suốt hàng thế kỷ.

Những công cụ thủ công, những đôi vai trần, những bàn tay nứt nẻ đã tạo nên một kỳ quan bền bỉ của sức người. Trị thủy, với người Việt, không chỉ là việc kỹ thuật – mà còn là văn hóa sống, là cách ứng xử hài hòa với thiên nhiên.

Bước sang thời kỳ Pháp thuộc, việc khai thác nguồn nước được đẩy mạnh, nhiều công trình thủy lợi quy mô lớn ra đời, song chủ yếu phục vụ cho mục đích kinh tế của chính quyền thực dân. Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn đặt nền móng cho kỹ thuật và tư duy quản lý thủy lợi hiện đại.

Thưa quý vị, từ truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh đến những công trình thủy lợi hiện đại, lịch sử thủy lợi chính là dòng chảy xuyên suốt phản ánh về ý chí kiên cường, một trí tuệ sáng tạo và tinh thần đoàn kết của cha ông ta trong hành trình dựng nước và giữ nước

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945

 

Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Tuyên cáo thành lập Bộ Giao thông Công chính, có nhiệm vụ quản lý công tác thủy lợi, cùng giao thông và bưu điện – tiền thân của Bộ Thủy lợi. Đến năm 1958, Bộ Thủy lợi chính thức được thành lập và từ đó, thủy lợi trở thành ngành kinh tế – kỹ thuật độc lập, thống nhất quản lý toàn bộ công tác về tài nguyên nước, thủy nông, thủy điện, cấp thoát nước và đê điều trên phạm vi cả nước.

Cũng trong thời kỳ này, tại Hội nghị Thủy lợi toàn miền Bắc năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước; có đất và có nước thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh.” Lời căn dặn ấy trở thành kim chỉ nam cho toàn ngành thủy lợi – làm cho đất và nước điều hòa, mang lại no ấm cho nhân dân.

Để rồi trong những năm chiến tranh ác liệt, dù điều kiện vô cùng khó khăn, công tác thủy lợi vẫn được duy trì, bởi người dân hiểu rằng “giữ nước” cũng là “giữ làng, giữ ruộng”. Những con đập, con đê khi ấy được dựng lên bằng sức người, bằng đôi vai và niềm tin.

Ngay sau Cách mạng tháng 8, thủy lợi Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức lớn về thiên tai, song toàn ngành vẫn kiên trì đối mặt, tích cực sửa chữa những hệ thống thủy nông đã bị phá hoại, đảm bảo lương thực cho toàn dân và cho tiền tuyến. Nhiều công trình thủy lợi được sửa chữa trong điều kiện rất khó khăn, thể hiện ý chí quật cường của nhân dân ta.

Ngày 1/10/1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cuốc nhát đầu tiên khởi công đại công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải – một trong những công trình tiêu biểu nhất của thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Chỉ sau 7 tháng thi công, công trình hoàn thành đúng vào ngày Quốc tế Lao động 1/5/1959, dẫn dòng nước sông Hồng tưới tiêu cho ba tỉnh Bắc Ninh – Hưng Yên – Hải Dương. Từ đó, vùng đất “mùa mưa ngập lụt, mùa khô hạn hán” đã hóa thành vựa lúa trù phú, vùng trọng điểm lương thực với diện tích toàn bộ hệ thống là 192.000ha, cũng là minh chứng cho sức sáng tạo và quyết tâm chinh phục thiên nhiên của con người Việt Nam.

Và trên tinh thần ấy, từ sau khi đánh thắng giặc Pháp năm 1954 đến năm 1975, thủy lợi được coi là ngành đầu tư trọng điểm, đóng góp to lớn vào việc ổn định lương thực và phục vụ kháng chiến. Hàng vạn công trình vừa và nhỏ được xây dựng, từ đê điều miền Bắc đến hệ thống thủy nông miền Trung và miền Nam, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển nông nghiệp. Nhờ đó, tăng năng suất, ổn định lương thực, cung cấp cho cuộc chiến tranh thống nhất đất nước.

Khắp cả nước, nhiều công trình thuỷ lợi lớn được xây dựng cho thấy sự trưởng thành về chất lượng chuyên môn của cán bộ thuỷ lợi, ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật. Những công trình kỳ vĩ được xây dựng khắp nơi trên cả nước như:

1 - Hồ Dầu Tiếng ở Đông Nam bộ là hồ thủy lợi nhân tạo lớn nhất Đông Nam Á.

2 - Hồ Định Bình là hồ có đập ngăn sông đầu tiên của Việt Nam áp dụng công nghệ thi công bê tông đầm lăn.

3 - Hệ thống đập hồ chứa nước Sông Cái (thuộc hệ thống thủy lợi Tân Mỹ) là đập bê tông dài nhất Việt Nam. Đây cũng là hệ thống thủy lợi điển hình của chuyển nước từ vùng mưa nhiều đến vùng khô hạn, sa mạc hóa.

4 - Hồ Ngàn Trươi, là công trình có đập cao hàng đầu Đông Nam Á.

5 - Hồ Cửa Đạt là hồ có đập đá đổ đầm nén bê tông bản mặt cao nhất Đông Nam Á.

6 - Hồ Tả Trạch là đập đất có khối tích lớn nhất với 9 triệu m3 đất đắp đập chính.

7 - Hồ Bản Mồng – là công trình thủy lợi lớn nhất Nghệ An, sử dụng vật liệu tro bay trong bê tông khối lớn;

8 - Đập dâng Văn Phong – là đập dâng có thiết kế ấn tượng dạng phím đàn Piano

9 - Hệ thống thủy lợi cống Cái Lớn – Cái Bé là “siêu cống thủy lợi” lớn nhất Việt Nam.

10 – Cống âu thuyền Ninh Quới – là công trình có âu thuyền lớn nhất Việt Nam

Các công trình này đã sử dụng các công nghệ, kỹ thuật mới của ngành thuỷ lợi. Mỗi công trình thể hiện sự tiến bộ của ngành thuỷ lợi trong từng giai đoạn.

Nhờ đó, Việt Nam từ một nước thiếu đói đã vươn lên trở thành những quốc gia xuất khẩu gạo, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, phát triển kinh tế xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Trong 80 năm qua, ngành thủy lợi đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển quan trọng. Nhìn lại lịch sử đấu tranh sinh tồn với lũ lụt, hạn hán, từ những trăn trở để đê hay bỏ đê, qua nhiều thế hệ của cha ông đến những chiến lược thích ứng tinh hoa như sống chung với lũ rồi đến chủ động sống chung với lũ ở đồng bằng sông Cửu Long, Ngành Thủy lợi là minh chứng hùng hồn cho ý chí tự cường và sự sáng tạo vô biên cùng tinh thần đoàn kết sắt đá của dân tộc.

Trải qua 80 năm phát triển, thủy lợi Việt Nam đã xây dựng nên một hệ thống hạ tầng đồ sộ với hơn 86.000 công trình, trong đó có 7.315 hồ chứa, gần 20.000 trạm bơm, 27.754 cống và khoảng 291.000 km kênh mương. Các công trình tiêu biểu như Bắc Hưng Hải, Dầu Tiếng, Cái Lớn - Cái Bé, cùng hơn 9.000 km đê điều.

Băng Thứ trưởng Hiệp “Sự phát triển của đất nước có đồng góp thủy lợi….”

Như lời Thứ trưởng Bộ NN-MT Nguyễn Hoàng Hiệp vừa khẳng định, 80 năm qua, thủy lợi Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn góp phần phòng chống thiên tai, cải tạo đất, cấp nước sinh hoạt, phát điện và cải thiện môi trường. Thủy lợi Việt Nam có thể tự hào đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, an ninh lương thực và phòng tránh, giảm nhẹ rủi ro thiên tai.

Từ đê đất, đập đá, ngành thủy lợi đã bước sang kỷ nguyên công nghệ cao với các công trình bê tông đầm lăn, đập đá đổ bản mặt, điều khiển tự động, quản lý bằng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu số.

Từ dòng nước ngọt tới nước mặn, từ đồng bằng tới miền núi, thủy lợi góp sức tạo nên một Việt Nam thịnh vượng và mỗi công trình là một biểu tượng của trí tuệ, lòng yêu nước cùng khát vọng làm chủ nguồn nước của người Việt.

Từ dòng nước của lịch sử đến dòng nước của hôm nay, thủy lợi Việt Nam luôn mang trong mình sứ mệnh lớn lao – trị thủy để trị quốc, giữ nước để giữ làng, làm chủ nước để phát triển đất nước. Dòng chảy ấy vẫn đang tiếp tục, bền bỉ và đầy khát vọng – như chính tinh thần con người Việt Nam trước thiên nhiên và thời đại.

Cả cuộc đời gắn bó với ngành thủy lợi, trước mốc son 80 năm đầy tự hào của lĩnh vực thủy lợi nói riêng, ngành NN-MT nói chung, GS.TS Đào Xuân Học tiếp tục đặt niềm tin mạnh mẽ vào sự phát triển của thủy lợi Việt Nam.

Băng GS.TS Đào Xuân Học - kết

Phần 2. Đối thoại

Thưa quý vị và bà con, 80 năm, thủy lợi Việt Nam lớn lên cùng đất nước, trong hành trình ấy, công tác đào tạo nhân lực là chiếc “chìa khóa vàng” mở ra tương lai cho sự phát triển bền vững của ngành. Năm 1959, Học viện Thủy lợi được thành lập - tiền thân của Trường Đại học Thủy lợi ngày nay, nơi đã đào tạo đội ngũ kỹ sư, nhà khoa học, chuyên gia phục vụ cho những công trình thủy lợi trọng điểm của đất nước. 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường, 80 năm Thủy lợi Việt Nam và Trường Đại học Thủy lợi với bề dày lịch sử hơn 66 năm đang cùng đất nước vươn mình mạnh mẽ. Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành Nông nghiệp và Môi trường, Nông nghiệp Radio đã có cuộc trao đổi với GS.TS Nguyễn Trung Việt, Hiệu trưởng Trường Đại học Thủy lợi:

Câu hỏi:

1/ Trong chặng đường 80 năm xây dựng và phát triển của ngành Thủy lợi, Trường Đại học Thủy lợi đã để lại những dấu ấn như thế nào, đặc biệt trong việc đào tạo và cung cấp đội ngũ cán bộ cho các công trình thủy lợi trọng điểm của đất nước?

2/ Dạ vâng ạ, hơn 66 năm lịch sử với những đóng góp to lớn cho ngành NN-MT, thì nói tiêng về năm nay đi ạ Năm 2025 là một năm nhiều thiên tai, bão lũ bất thường. Trong bối cảnh đó, Trường Đại học Thủy lợi đang đổi mới chương trình đào tạo như thế nào đế đáp ứng yêu cầu về nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực dự báo, phòng chống thiên tai và thích ứng biến đổi khí hậu?

3/ Là trường đại học có tỷ lệ tiến sĩ cao nhất cả nước và đang phát triển theo hướng đa ngành, Trường Đại học Thúy lợi định vị mình ra sao trong bản đồ giáo dục đại học Việt Nam, đặc biệt trước yêu cầu hội nhập quố V sâu rộng và chuyển đối số trong giáo dục?

Bây giờ, mời quý vị và bà con cùng đến với một số tin vắn về lĩnh vực Thủy lợi

Thưa quý vị và bà con, UBND TPHCM đã phê duyệt đầu tư dự án nâng cấp, mở rộng hệ thống thủy lợi kênh Đông Củ Chi với tổng vốn đầu tư hơn 2.250 tỉ đồng. Dự án triển khai trong giai đoạn 2025-2030. Theo thiết kế, dự án sẽ cải tạo, nâng cấp toàn tuyến kênh dài hơn 30km, từ đập dâng Bến Mương đến khu vực cầu An Hạ. Kênh Đông Củ Chi là tuyến thủy lợi có vai trò cung cấp nước tưới, tiêu úng và phục vụ sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt cho hơn 25.000 hécta đất tại các khu vực phía Tây Bắc của thành phố. Công trình này còn kết nối hệ thống thủy lợi liên vùng, góp phần phân phối nguồn nước từ hồ Dầu Tiếng về TPHCM và vùng phụ cận. Ngoài chức năng thủy lợi, công trình còn giúp tiêu thoát nước cho các khu dân cư, khu công nghiệp, hạn chế ngập cục bộ trong mùa mưa và cải thiện môi trường sinh thái.

Dự án Đầu tư xây dựng hồ Đắk Gang, tỉnh Lâm Đồng là công trình thủy lợi trọng điểm do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phê duyệt năm 2023, với tổng mức đầu tư hơn 1.082 tỷ đồng. Dự án được triển khai trong giai đoạn 2023 - 2027, nhằm phục vụ nhu cầu tưới tiêu, cấp nước sinh hoạt, góp phần phát triển nông nghiệp, ổn định đời sống người dân khu vực thường xuyên hạn hán tại xã Đắk Mil và Cư Jút. Tổng diện tích bị ảnh hưởng của dự án hồ Đắk Gang là hơn 205 ha, liên quan đến 675 hộ dân. Công tác giải phóng mặt bằng được chia thành 6 đợt, trong đó đợt 1 đã cơ bản hoàn thành với 27 hộ bàn giao mặt bằng. Tuy nhiên, còn 2 hộ chưa nhận tiền do chưa thống nhất chi phí bồi thường cây trồng xen và các khoản hỗ trợ. Các đợt còn lại đang gặp khó khăn ở nhiều khâu như: thẩm định, xác định nguồn gốc đất và phê duyệt phương án bồi thường.

Để khắc phục kịp thời hệ thống công trình thủy lợi hồ, đập, kênh mương bị hư hỏng do mưa, lũ gây ra, đảm bảo an toàn công trình, vận hành cấp đủ nước phục vụ sản xuất và dân sinh năm 2026, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh phát động phong trào “Toàn dân ra quân làm thủy lợi năm 2026” trên địa bàn toàn tỉnh từ ngày 10/11/2025 đến ngày 30/1/2026, phục vụ sản xuất, dân sinh. Theo đó, chủ tịch UBND các xã, phường phát động phong trào toàn dân ra quân làm thủy lợi phục vụ sản xuất, dân sinh năm 2026 bảo đảm hiệu quả, thiết thực, tránh hình thức, lãng phí. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát và đảm bảo an toàn trong quá trình thực hiện, huy động Nhân dân nạo vét kênh mương, vớt bèo, khơi thông dòng chảy, củng cố bờ vùng, bờ thửa, bảo đảm giữ nước mặt ruộng phục vụ sản xuất vụ Xuân năm 2026.

Tính đến hết tháng 10 năm nay, 10 xã mới của khu vực Thuận Châu, tỉnh Sơn La có 19 công trình cấp nước tập trung cho khu vực nông thôn; trên 100 công trình cấp nước nhỏ, lẻ phục vụ đời sống nhân dân. Đến nay, khu vực Thuận Châu có tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch trên 80%, vượt chỉ tiêu đề ra trong chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025. Tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch cao góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng với việc giảm 30% các trường hợp bệnh đường ruột của năm 2025 so với trước năm 2017. Do có điều kiện sinh hoạt tốt hơn, nhân dân có thời gian, có sức khỏe để học tập và sản xuất, thúc đẩy kinh tế hộ gia đình phát triển.

Nhiều năm qua, 2 tỉnh Bình Phước và Đồng Nai trước đây đã ban hành các kế hoạch, đề án, chương trình nhằm tăng tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch. Tuy nhiên, việc phát triển nước sạch vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra do nhu cầu vốn đầu tư lớn, trong khi người dân nông thôn vẫn còn thói quen sử dụng nước giếng khoan tự khai thác. Để tiếp tục cải thiện kết quả đó, Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đã đưa ra chỉ tiêu phát triển nước sạch. Theo đó, nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030 có 92% dân số đô thị được cấp nước sạch tập trung và 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn.

Nội dung vừa rồi cũng đã kết thúc Chương trình Nguồn nước xanh của Nông nghiệp Radio hôm nay, cảm ơn sự chú ý theo dõi của quý vị và bà con, xin chào và hẹn gặp lại.

Tự động

Thủy lợi Việt Nam – Dòng chảy từ lịch sử đến hiện đại

Từ dòng nước của lịch sử đến dòng nước của hôm nay, thủy lợi Việt Nam luôn mang trong mình sứ mệnh lớn lao - làm chủ nước để phát triển đất nước.

Quỳnh Anh

Tin liên quan

Các chương trình

Trồng rừng bền vững, nâng cao thu nhập cho nông dân
Đối thoại

Những cánh rừng được quản lý khoa học, phát triển đồng đều và gắn với bảo vệ đất, giữ nước, giữ hệ sinh thái.

Trồng rừng bền vững, nâng cao thu nhập cho nông dân
Điểm sáng trong đầu tư, nâng cấp các công trình thủy lợi ở Quảng Ninh
Đối thoại

Nhiều công trình thủy lợi đã và đang được tỉnh Quảng Ninh đặc biệt quan tâm, chú trọng trong công tác duy tu, bảo dưỡng cũng như nâng cấp, xây mới.

Điểm sáng trong đầu tư, nâng cấp các công trình thủy lợi ở Quảng Ninh