
Nghị quyết Số 19-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 5, BCH Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu:
"Nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất, duy trì tăng trưởng ở mức khá cao, khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
Sản xuất kinh doanh nông nghiệp phát triển mạnh theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng, phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp ngày càng được hoàn thiện; tỉ lệ nông sản qua chế biến tăng dần, thị trường tiêu thụ được mở rộng, xuất khẩu tăng nhanh cả về sản lượng, giá trị và tỉ trọng sản phẩm chất lượng cao. Việt Nam trở thành một trong những nước có một số mặt hàng xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới".
Cùng với, đó, trình độ, học vấn của nông dân nước ta từng bước được nâng cao; tư duy sản xuất kinh doanh nông nghiệp không ngừng đổi mới, dần thích ứng với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nông dân đã phát huy tốt hơn vai trò là chủ thể, tham gia hợp tác, liên kết, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế, khôi phục và phát triển ngành nghề nông thôn, xây dựng nông thôn mới, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực, tăng tỉ trọng kinh tế công nghiệp và dịch vụ.
Vì thế, thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, số hộ khá và giàu tăng, diện mạo nông thôn Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt.
Theo Nghị quyết 19, nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời; có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3 thành tố này là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nguồn lực của đất nước phải tiếp tục ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn.


"Bảo đảm phát triển hài hoà giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, miền, địa phương; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp, giữa phát triển nông thôn bền vững với quá trình đô thị hoá theo hướng "nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh", Nghị quyết 19 nêu rõ.
Trong đó, nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Còn nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế. Bảo đảm an toàn thực phẩm, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn.
Tầm nhìn đến năm 2045 mà Nghị quyết đưa ra là nông dân và cư dân nông thôn văn minh, phát triển toàn diện, có thu nhập cao. Nông nghiệp sinh thái, sản xuất hàng hoá quy mô lớn, có giá trị gia tăng cao, gắn kết chặt chẽ với thị trường trong và ngoài nước, công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản hiện đại, xuất khẩu nhiều loại nông sản đứng hàng đầu thế giới.
Nông thôn hiện đại, có điều kiện sống tiệm cận với đô thị, môi trường sống xanh, sạch, đẹp, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc.


Các mô hình sản xuất nông nghiệp sinh thái (NNST) là những giải pháp chính để thâm canh nông nghiệp dài hạn, hạn chế chuyển đổi đất rừng sang đất trồng trọt, hạn chế sử dụng vật tư, giảm thiểu khí thải nhà kính từ nông nghiệp và góp phần tăng lưu trữ các-bon thông qua tăng mùn trong đất, tăng thảm thực vật che phủ ở các diện tích bỏ hoang hóa tạm thời hoặc sử dụng lớp bổi.
Việc chuyển đổi sang NNST dựa trên nguyên tắc đa dạng hóa cây trồng, giúp nâng cao kiến thức của nông dân, bảo đảm an ninh lương thực, cung ứng sản phẩm an toàn thực phẩm và tăng cường đa dạng sinh học nông nghiệp, cải thiện khả năng phục hồi của hệ thống sản xuất trước BĐKH, góp phần giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về thích ứng và giảm thiểu BĐKH.


Có thể thấy, NNST là hướng đi tất yếu hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững khi cùng lúc áp dụng cả khái niệm và nguyên tắc sinh thái, xã hội vào việc quản lý các hệ thống nông nghiệp, lương thực và thực phẩm; tối ưu hóa quan hệ và hiệu quả tương tác giữa thực vật, động vật, con người và môi trường; đồng thời, chú ý đến các khía cạnh xã hội cần được giải quyết để đạt được hệ thống lương thực, thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững.
Nông nghiệp sinh thái không phải là một khái niệm mới. Kể từ những năm 1920, cụm từ NNST đã được đề cập trong các tài liệu khoa học và thể hiện trong các tiến bộ kỹ thuật, thực hành sản xuất của nông hộ, trong các phong trào xã hội vì sự bền vững và trong chính sách công của nhiều quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, vì chỉ đề cập NNST trên khía cạnh kỹ thuật nên NNST khó mở rộng do có nhiều hạn chế khác liên quan đến kinh tế - xã hội, môi trường.
Cho đến nay, có nhiều cách nhìn nhận, cách hiểu khác nhau về NNST, thể hiện sự phát triển của khái niệm toàn diện hơn và chú ý đến việc làm thế nào mở rộng nguyên lý của NNST trong toàn bộ nền nông nghiệp. Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc (FAO) đã tổng hợp và hệ thống hóa lý luận về NNST.
Theo đó, nền NNST được định nghĩa là một phương pháp tiếp cận tổng hợp chú trọng đến sự tương tác giữa các yếu tố môi trường, xã hội và kinh tế của các hệ thống lương thực, thực phẩm thông qua việc áp dụng đồng bộ các quy trình, công nghệ thông minh và thân thiện với môi trường; sử dụng hợp lý vật tư đầu vào, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ít phát thải, không tác động xấu đến sức khỏe con người; phát huy tính đa dạng, giá trị văn hóa của hệ thống để nâng cao giá trị nông sản nhằm bảo đảm mục tiêu tăng trưởng xanh, bền vững.


Ở Việt Nam, một số hệ thống nông nghiệp theo hướng sinh thái đã được triển khai, mang lại hiệu quả và tạo tiền đề cho phát triển nông nghiệp theo hướng NNST. Như trên đề cập, NNST không phải là một khái niệm, cách tiếp cận mới. Ở Việt Nam, một số mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái đã được triển khai từ khá lâu.
Các mô hình này đều hướng đến việc khai thác và sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả, giảm thiểu sự thất thoát, lãng phí và tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao và giảm thiểu tối đa tác động đến môi trường sinh thái, bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe con người. Dưới đây là một số mô hình điển hình đã được triển khai trong những năm qua:
Hệ thống vườn - ao - chuồng (VAC): mô hình này được áp dụng phổ biến ở Việt Nam từ những năm 1980. Hệ thống VAC là hệ thống khép kín mà các thành phần trong hệ thống này có liên hệ mật thiết với nhau, sử dụng chất thải của thành phần này làm nguyên liệu đầu vào cho thành phần khác.
Hệ thống lúa - tôm, lúa - cá: mô hình sản xuất kết hợp lúa - tôm, lúa - cá là hướng đi mới trong phát triển nông nghiệp hữu cơ những năm gần đây. Mô hình này xuất hiện vào những năm đầu thập niên 2000 tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.


Nông lâm kết hợp: Có thể hiểu một cách đơn giản là "Cây nông nghiệp kết hợp với cây thân gỗ", hoặc sử dụng cây lâu năm cho mục đích nông nghiệp trong các trang trại, canh tác trong rừng hoặc ven rừng, ở vùng đất ngập nước hoặc vùng đất cạn. Tuy nhiên, Nông lâm kết hợp không chỉ đơn thuần là "Cây nông nghiệp kết hợp với cây thân gỗ", nông lâm kết hợp còn là một phương pháp tiếp cận nông nghiệp sinh thái.
Hệ thống nông nghiệp cảnh quan bền vững: đây là phương pháp tiếp cận tổng hợp để giải quyết tình trạng suy thoái môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) và tăng cường đa dạng sinh học, đồng thời cải thiện an ninh về lĩnh vực lương thực và dinh dưỡng.
Hệ thống chăn nuôi an toàn sinh học 4F (Farm - Food - Feed - Fertilizer: Trang trại - Thành phẩm - Thức ăn chăn nuôi - Phân bón hữu cơ): mô hình 4F được nghiên cứu và phát triển bởi Tập đoàn Quế Lâm nhằm xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp thông qua triển khai các khu tổ hợp chế biến nông sản hữu cơ, kiểm soát sản xuất thịt lợn an toàn bằng hệ thống nuôi khép kín.
Hệ thống nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái: đây là hệ thống sử dụng nguyên lý cộng hưởng của NNST. Du lịch NNST là mô hình đang ngày càng được đầu tư và chú trọng ở Việt Nam trong những năm gần đây, tạo nhiều sức hút đối với du khách trong và ngoài nước cũng như gia tăng thu nhập cho người sản xuất nông nghiệp.

Mô hình sản xuất hữu cơ: thời gian gần đây, các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ cũng được quan tâm. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ trong trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản được phát triển.
Theo TS. Nguyễn Quang Tân - Điều phối viên quốc gia của ICRAF tại Việt Nam, việc thiết lập mô hình nông nghiệp sinh thái đòi hỏi đầu tư lớn, vì vậy cần hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho nông dân. Bắt đầu với những mô hình dễ áp dụng sẽ giúp người dân dễ dàng tiếp cận và mở rộng.
"Tôi đề nghị cần nâng cao học hỏi và trao đổi kinh nghiệm giữa nông dân và có lộ trình từng bước giảm sử dụng hóa chất để thay đổi nhận thức và hành động của người dân. Ngoài ra, khung chính sách cần có hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái, hỗ trợ thị trường và chuỗi giá trị cho sản phẩm sinh thái", ông Tân nhấn mạnh.

- Tuần hoàn:
Sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên sẵn có, giảm thiểu chất thải và tái sử dụng chất thải hữu cơ.
- Giảm thiểu đầu vào hóa chất:
Hạn chế sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu và các hóa chất khác, thay thế bằng các biện pháp tự nhiên.
- Làm đất (sức khỏe đất):
Cải tạo và bảo vệ đất, tăng cường độ phì nhiêu, hạn chế xói mòn.
- Sức khỏe vật nuôi:
Chăm sóc sức khỏe vật nuôi bằng các biện pháp tự nhiên, đảm bảo điều kiện sống tốt.
- Đa dạng sinh học:
Duy trì và phát triển đa dạng sinh học trong hệ thống nông nghiệp, bao gồm cả thực vật và động vật.

- Tính Cộng hưởng:
Tạo ra sự tương tác tích cực giữa các thành phần trong hệ thống nông nghiệp để tăng năng suất và hiệu quả.
- Đa dạng hóa hoạt động kinh tế:
Phát triển nhiều hoạt động kinh tế khác nhau trong nông trại, giảm sự phụ thuộc vào một loại cây trồng hoặc vật nuôi duy nhất.
- Đồng tạo lập tri thức:
Chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm giữa các nông dân và các nhà khoa học.
- Giá trị xã hội và khẩu phần ăn:
Đảm bảo an ninh lương thực, cung cấp thực phẩm lành mạnh và đa dạng cho cộng đồng.
- Công bằng:
Đảm bảo sự công bằng trong tiếp cận tài nguyên và cơ hội kinh tế cho tất cả mọi người.
- Kết nối:
Tạo ra mạng lưới kết nối giữa nông dân, nhà khoa học, người tiêu dùng và các bên liên quan khác.
- Quản trị đất và tài nguyên thiên nhiên:
Quản lý đất và tài nguyên thiên nhiên bền vững, bảo vệ môi trường.
- Sự tham gia:
Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong quá trình ra quyết định và thực hiện các hoạt động nông nghiệp sinh thái.

Năm 2019, Hội đồng Chuyên gia Cấp cao về An ninh Lương thực và Dinh dưỡng (HLPE) – cơ quan độc lập của Ủy ban An ninh Lương thực Thế giới (CFS) của Liên hiệp quốc – đã định nghĩa 13 nguyên tắc của nông nghiệp sinh thái.
Định nghĩa này được nêu trong báo cáo có tiêu đề: "Nông nghiệp sinh thái và các phương pháp tiếp cận sáng tạo khác cho nông nghiệp bền vững và hệ thống lương thực nhằm tăng cường an ninh lương thực và dinh dưỡng", như một khuôn khổ cho nông nghiệp bền vững và chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm.
Kể từ khi được giới thiệu, 13 nguyên tắc của HLPE về nông nghiệp sinh thái đã được công nhận và được tham chiếu rộng rãi trong các cuộc thảo luận và sáng kiến liên quan đến nông nghiệp bền vững, an ninh lương thực và tính bền vững về môi trường.
13 nguyên tắc này cung cấp một khuôn khổ toàn diện để thúc đẩy các phương pháp tiếp cận nông nghiệp sinh thái trong nông nghiệp và sản xuất lương thực nhằm cải thiện tính bền vững/hiệu quả, khả năng phục hồi và công bằng xã hội.
Các định nghĩa này được trích dẫn trực tiếp từ: HLPE. 2019. Các phương pháp tiếp cận Nông nghiệp sinh thái và đổi mới khác cho hệ thống nông nghiệp và lương thực thực phẩm bền vững nhằm tăng cường an ninh lương thực và dinh dưỡng. Báo cáo của Hội đồng Chuyên gia Cấp cao về An ninh Lương thực và Dinh dưỡng thuộc Ủy ban An ninh Lương thực Thế giới, Rome.

Một là, truyền thông thay đổi nhận thức của người sản xuất và xã hội về phát triển nông nghiệp bền vững, NNST.
Hai là, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, tăng cường chia sẻ tri thức nhằm hướng tới nền nông nghiệp bền vững, minh bạch, trách nhiệm.
Ba là, xây dựng, hoàn thiện các tiêu chí đánh giá NNST và các phương thức chứng nhận sản phẩm NNST.
Bốn là, xây dựng chính sách hỗ trợ người sản xuất chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang NNST.
Năm là, phát triển liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm NNST.
Sáu là, phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng sinh thái cần được xác định là định hướng, đồng thời là nhiệm vụ của các địa phương.
Liên quan vấn đề này, Giáo sư Fergus Sinclair - Đồng chủ trì Diễn đàn Đối tác trong chuyển đổi sang Nông nghiệp sinh thái (Agroecology TPP) cho rằng, Việt Nam đang có một cơ hội thực sự, với nhiều nghiên cứu thú vị và thực hành rất đáng chú ý: "Dù là trong các hệ thống canh tác xen canh cà phê, cây ăn quả và hồ tiêu ở Tây Nguyên, hay các mô hình nông lâm kết hợp với cây ăn quả theo đường đồng mức trên đất dốc ở vùng Tây Bắc".
Theo ông, những người nông dân ở đây đang bắt đầu đổi mới mạnh mẽ và tiếp cận các giải pháp nông nghiệp sinh thái, điều này không chỉ cải thiện thu nhập của họ mà còn mang lại tác động tích cực cho môi trường.
"Và nếu chúng ta có thể làm tốt cả hai điều đó, thì tương lai của nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam thực sự rất hứa hẹn", Giáo sư Fergus Sinclair chia sẻ thêm.
Bài viết có sự tham gia đóng góp của Tổ chức Nghiên cứu Nông Lâm Quốc tế (ICRAF) tại Việt Nam. ICRAF (còn được biết đến với tên gọi World Agroforestry) là tổ chức duy nhất thực hiện các nghiên cứu quan trọng liên quan tới nông lâm kết hợp ở quy mô toàn cầu từ năm 1978, bên cạnh gần 20 năm triển khai các hoạt động nghiên cứu tại Việt Nam.
ICRAF hiện cũng là một trong những đối tác của Việt Nam trong tiến trình chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm Minh bạch, Trách nhiệm và Bền vững.
Từ năm 2019, ICRAF bắt đầu đồng hành cùng Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR) nhằm khai thác sức mạnh của cây thân gỗ, rừng và cảnh quan nông lâm kết hợp với mục đích giải quyết những thách thức toàn cầu cấp bách nhất hiện nay như mất đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, sinh kế và bất bình đẳng. Cả ICRAF và CIFOR đều là các thành viên của CGIAR.
