Phan Quang, tên khai sinh Phan Quang Diêu, sinh năm 1928 tại làng Thượng Xá, xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Con đường ông đi cũng như nhiều thanh niên yêu nước hồi bấy giờ, không có đường nào khác là đường cách mạng. Cách mạng đã trao cho ông ngọn bút làm vũ khí chiến đấu vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc. Lấy hiện thực hào hùng của nhân dân qua mấy cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược, bảo vệ biên cương và sự nghiệp Đổi mới làm chất liệu, sống trong lòng nhân dân, ông trở thành nhà báo của dân, của Đảng.


Phan Quang tham gia cách mạng ở địa phương đầu tháng 3 năm 1945, khi còn là học sinh. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Quảng Trị nhiều lần bị càn quét, riêng trận càn tháng 3 năm 1948, 700 đồng bào hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng bị địch giết trong mấy ngày.
Trước khi thoát ly hẳn, ông về vùng địch hậu thăm gia đình và đã kể trong hồi ký: “Tôi về vào lúc nửa đêm, trăng thượng tuần sắp lụn, chiếu ánh sáng đỏ ỏng như lửa một đám cháy ở đâu xa hắt lại… Đến bây giờ, tôi còn nhớ bàn tay cha tôi sờ đầu tôi trong bóng tối và tiếng cha tôi dặn: “Con yên tâm đi làm việc nước, từ nay đừng ghé nhà làm chi”. Rồi cha tôi đích thân dẫn tôi ra khỏi làng, đến tận con đường lên chiến khu. Từ nhà tôi đến con đường ấy phải qua một cánh rừng phi lao, ở đây địch hay phục kích bắt cán bộ. Cha tôi làm như sợ tôi không thuộc đường, mặc áo trắng đưa tôi đi.
Mãi khi bước vào rừng nghe tiếng phi lao réo âm u, nhìn bóng trắng cha tôi nổi bật trong đêm, tôi mới nghĩ ra và giật mình: Cha tôi muốn tránh cho tôi khỏi rơi bất ngờ vào ổ địch nên đã mặc chiếc áo trắng đưa đường; nếu có địch rình, nhất định chúng sẽ ngắm bóng người áo trắng mà bắn… Tôi đi mãi, đến ngày giải phóng miền Nam thì cha tôi không còn; chỉ còn lại hình ảnh đêm chia tay ấy, tấm áo trắng của cha tôi dưới ánh trăng tàn, và tấm lòng trung trinh của cụ với cách mạng”.
Năm 1948, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Phân Khu ủy Bình Trị Thiên chọn một số thanh niên có trình độ văn hóa, có lý lịch tin cậy để đào tạo cán bộ chiến lược.
Nhưng lịch sử cũng như số phận con người, thường có những bước bất ngờ. Từ vùng địch hậu Bình Trị Thiên, ông được điều ra vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh. Thường vụ Liên khu ủy IV hồi ấy đóng cơ quan tại tỉnh Thanh Hóa thấy Phan Quang viết được, liền ra Quyết định đưa ông về làm phóng viên báo Cứu Quốc Liên khu IV. Ông bước vào nghề báo chính thức từ lúc đó. Bài viết đầu tiên của ông ký bút danh Hoàng Tùng là bài “Đi thăm một xưởng vũ khí của dân quân xã”, đăng hai kỳ trên báo Cứu Quốc Liên khu IV ngày 9 và 10 tháng 11 năm 1948. Tuổi trẻ hăng hái, “điếc không sợ súng”, ông viết đủ mọi lĩnh vực và thể loại, nhờ vậy cái tên Hoàng Tùng báo Cứu Quốc mau chóng trở nên quen thuộc đối với bạn đọc. Ngày 10 tháng 10 năm 1954, ông nhận được Quyết định của Ban Tổ chức Trung ương điều về công tác tại Báo Nhân Dân.
Báo Nhân Dân, báo Đảng là tờ báo được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bác Hồ và Trung ương Đảng. Ngay khi thành lập, số đầu ra ngày 11/3/1951, trong 8 ủy viên của Ban Biên tập có đến 5 Ủy viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư là các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Nguyễn Chí Thanh. Tổng Biên tập là đồng chí Hoàng Tùng, người từng làm Bí thư Thành ủy Hà Nội ngay sau Tổng khởi nghĩa.


Trong lần đầu hai anh em gặp nhau tại huyện Đan Phượng, Tổng Biên tập Hoàng Tùng (tên khai sinh Trần Khánh Thọ, 1920-2010) nói: “Cậu là Hoàng Tùng, mình cũng là Hoàng Tùng. Trong Báo Nhân Dân không thể có hai Hoàng Tùng, hoặc là cậu, hoặc là mình!”. Phan Quang Diêu lấy bút danh Phan Quang từ đó. Đời ông có hơn 28 năm gắn bó với Báo Nhân Dân, từ 1954 đến 1982, đó là 28 năm gắn cuộc đời với báo chí, văn học trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Nhà báo Hoàng Tùng đánh giá: “Trong thời gian làm việc ở Báo Nhân Dân, Phan Quang là một trong mấy đồng chí đi nhiều nhất, viết nhiều nhất. Đi bằng xe đạp dưới sự gầm rú của máy bay và tiếng nổ của bom Mỹ. Anh viết nhiều về nông thôn, nông dân, góp phần to lớn phát động phong trào hợp tác hóa, thâm canh tăng năng suất, làm ra 5 tấn thóc một hecta, giao khoán đến hộ gia đình…, viết nhiều về các đơn vị điển hình, con người điển hình, cuộc sống nông thôn trong ba mươi năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ”.
Nếu nói một đặc điểm của phong cách nghệ thuật báo chí Phan Quang, thì đặc điểm đó là thấm đẫm chất văn, tác động mạnh mẽ vào tình cảm con người. Hình ảnh hai em bé bên bờ phá Tam Giang tỉnh Thừa Thiên năm 1950, ngóng về Nam, miệng em út kêu hoài “mạ, mạ...” vì hôm qua mạ các em vừa bị địch bắt ném lên ca nô lôi đi, còn cha các em đã bị địch bắn chết trong một trận càn trước...
Phan Quang đã viết tại chỗ, trong tiếng kêu xé lòng của em bé: “Gió bấc thổi tạt những tiếng kêu non nớt. Nước mưa rơi hòa vào nước mắt em chảy ngoằn ngoèo xuống má. Mẹ em bao giờ về? Có bao giờ về nữa không? Tôi ôm chặt hai em bé vào lòng. Da các em lạnh buốt... Rất xa, từ phía đồn Sịa, bờ bên kia của phá Tam Giang, một băng súng máy nổ dài như mỉa mai những con người đang chờ mong có phong pháo nổ đón tổ tiên về vui Tết với cháu chắt chiều cuối năm”.
Để có thể chạm vào trái tim người khác, trái tim của người viết nhất định phải thắm thiết, chân thành luôn rung động trong những yêu thương con người, dào dạt tình yêu Tổ quốc. Nhà báo Phan Quang từng nhiều lần tâm sự: “Tình nhà, tình nước thấm vào máu thịt tôi làm nên con người, con chữ không thể hờ hững trước những nỗi đau, sự hy sinh và mất mát của con người”…


Người ta thường đặt câu hỏi: “Nhà báo - bạn là ai?”.
Phan Quang trả lời: “Nhà báo là tôi ngày ấy, tôi chỉ muốn ta san bằng đồn Sịa và mọi đồn bốt địch, tìm lại mạ cho hai em bé; muốn phá tan giới tuyến ngăn hai miền để Bắc, Nam thống nhất. Nhà báo, theo tôi nghĩ, trước hết là một chiến sĩ vì dân, vì nước; một chiến sĩ dám hy sinh thân mình cho tự do, như Julius Fucik, nhà báo nước Tiệp - người để lại ấn tượng sâu trong cuộc đời và nghề nghiệp của thế hệ chúng tôi đã viết, nếu một người ngã xuống thì có thêm hai, ba người khác thế vào chỗ của anh cho đến thắng lợi cuối cùng”.
Tâm nguyện của Phan Quang là được làm người cầm bút viết báo, làm văn cho đến khi xuôi tay nằm xuống. Tuy nhiên, do yêu cầu của tổ chức, năm 1982, ông rời Nhân Dân sang làm Vụ trưởng Vụ Báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương (thay Lưu Quý Kỳ), rồi Thứ trưởng Bộ Thông tin, Tổng Giám đốc kiêm Tổng Biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam, kiêm nhiệm Chủ tịch Hội Nhà báo, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội ba nhiệm kỳ liền.
Cuối năm 1988, ông được điều về làm Tổng Giám đốc, Tổng Biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam thay đồng chí Trần Lâm.
Hồi bấy giờ, tư tưởng bảo thủ vẫn neo chặt, người người điêu đứng trong nghèo nàn. Cả cơ quan Đài Tiếng nói Việt Nam chỉ có một chiếc ghế bành là ghế của Trần Lâm ngồi làm việc thì đã rách lớp da bọc ngoài, lòi cả nệm rơm và cái lò xo bên dưới không biết tự bao giờ!
Cuộc sống của anh chị em nhà Đài gặp vô vàn khó khăn. Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi rất nổi tiếng, từng làm giáo viên rồi cán bộ biên tập chủ chốt của Ban Văn nghệ mấy chục năm, chỉ nhận lương cán sự 2, bậc thứ 2 sau khởi điểm khi tốt nghiệp đại học đi làm. Một số ca sĩ sau này là NSND, NSƯT cũng như nhiều phóng viên, cán bộ biên tập đều trong tình trạng đi làm mà vẫn đói dài.
Với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và cố học tập, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài, ông cùng tập thể lãnh đạo đã tạo ra một bước ngoặt cho Đài Tiếng nói Việt Nam, trước hết là khơi dậy tinh thần tự chủ, thi đua phát huy sáng kiến của từng phóng viên, từng bộ phận; luôn lắng nghe ý kiến bạn nghe đài; xây dựng tiềm lực kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
Đây là thời kỳ lần đầu tiên Đài Tiếng nói Việt Nam phủ sóng trên toàn quốc, tách các chương trình phát thanh ra thành nhiều hệ, mở rộng các chương trình phát thanh tiếng Việt, tiếng các dân tộc anh em và tiếng nước ngoài, đặt cơ sở hình thành các hệ VOV1, VOV2… hùng hậu ngày nay, ứng dụng công nghệ phát thanh hiện đại, mở rộng cửa để anh em giao lưu quốc tế, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài theo định hướng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.


Tên tuổi Phan Quang cũng gắn với Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam.
Số là, năm 1981, Báo Nhân Dân chuẩn bị kỷ niệm 30 năm ngày Báo Nhân Dân ra số đầu, phân công Phan Quang lo việc xây dựng Phòng Truyền thống của báo Đảng. Từ công việc đó nảy sinh vấn đề được bàn luận nhiều tại Báo Nhân Dân và Hội Nhà báo Việt Nam: Nên chăng nước Việt Nam ta có một ngày truyền thống của báo chí?


Qua nhiều lần trao đổi, một cuộc họp dưới sự chủ trì của đồng chí Hoàng Tùng, lúc đó là Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Chủ tịch Hội Nhà báo, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân tại trụ sở Báo Nhân Dân, với sự có mặt của các đồng chí Đặng Xuân Kỳ, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; Hà Xuân Trường, Thứ trưởng Bộ Văn hóa; Nguyễn Đức Bình, Giám đốc Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc; Đào Duy Tùng, Phó Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương; Hồng Chương, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; Đào Tùng, Tổng Giám đốc TTXVN, Phan Quang, Phó Tổng Thư ký Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam, và mấy người nữa.
Từ kết luận hội nghị này và được sự gợi ý của đồng chí Trường Chinh, Hội Nhà báo làm văn bản trình cấp trên xin chọn ngày 21/6, ngày xuất bản số đầu báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp điều hành năm 1925 làm “Ngày Báo chí Việt Nam”. Ngày 5/2/1985, Ban Bí thư ra Quyết định chấp nhận đề nghị của Hội: Từ nay (1985), Ngày 21/6 hằng năm là “Ngày Báo chí Việt Nam” (nay gọi là Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam).
Ngày báo chí được các cấp hoan nghênh và tổ chức rầm rộ khởi đầu từ năm ấy, nhằm mục đích tôn vinh hoạt động báo chí và đội ngũ những người làm báo; kế thừa truyền thống tốt đẹp của báo chí ta kể từ ngày tờ Gia Định báo ra đời năm 1865, kế thừa tinh hoa báo chí cách mạng; nâng cao ý thức, trách nhiệm của người làm báo; thắt chặt mối quan hệ giữa báo chí với công chúng, tích cực phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong bối cảnh mới và không ngừng thay đổi.
Với tư cách Đại biểu Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Thông tin, ông cũng được phân công chủ trì Ban soạn thảo dự luật Luật Báo chí đầu tiên của ta sau Đổi mới. Qua nhiều lần thảo luận, Luật Báo chí được Kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa VIII thông qua ngày 28-12-1989.
Hơn 70 năm viết không ngừng nghỉ, Phan Quang đã viết hàng nghìn bài báo, nhiều bài báo tác động trực tiếp đến việc xây dựng chính sách; nhiều bài báo trở thành những công trình văn hóa như Đồng bằng sông Cửu Long viết từ lúc miền Nam mới được giải phóng. Phan Quang là nhà báo có nhiều sách xuất bản nhất ở Việt Nam. Về dịch văn học, có nhiều cuốn nổi tiếng như “Mùa hè thứ ba” của Constantin Simonov; “Từ sông Vônga đến Sông Đông” của Anton Pautovsky; “Những ngôi sao ban ngày” của Olga Bergholtz (tái bản 5 lần); “Nghìn lẻ một đêm” (tái bản hơn 40 lần), “Nghìn lẻ một ngày” của Ba Tư (tái bản 17 lần)…
Nhưng cuốn sách của cả cuộc đời là “Bác Hồ, người có nhiều duyên nợ với báo chí” (NXB Đại học quốc gia, 2019) vì nó thể hiện được lòng kính nhớ và biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ, nó còn là tâm tình một người làm báo muốn sẻ chia cùng các đồng nghiệp thân yêu.


Ngày nay, nhiều sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh đã lấy tác phẩm Phan Quang làm đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn tốt nghiệp cho mình. Bởi vì tác phẩm của ông vô cùng đồ sộ; phong cách của ông độc đáo.
Những công trình đó, cộng lại, đến mấy nghìn trang. Nhưng với Phan Quang, ông chỉ đi trong 11 chữ của Bác Hồ: “Viết cho ai, viết để làm gì, viết như thế nào”. Chỉ đi trong 11 chữ ấy, mà Phan Quang trở thành một cây đại thụ trong làng báo chí cách mạng Việt Nam, đi đến Huân chương Độc lập hạng Nhất và lòng mến mộ của bạn đọc.