| Hotline: 0983.970.780

Chủ nhật 18/05/2025 - 08:22

Thủy sản

Công nghệ nuôi tôm của Việt Nam không thua bất kỳ quốc gia nào

Chủ Nhật 18/05/2025 - 08:21

Điều này được chứng minh qua các kết quả về năng suất, sản lượng, nhưng giá thành vẫn là rào cản lớn với sản phẩm tôm Việt Nam khi thâm nhập thị trường thế giới.

Ngành tôm Việt Nam có lợi thế để cải thiện thứ hạng

Theo ông Trình Trung Phi, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt - Úc, mặc dù là quốc gia có sản lượng tôm xuất khẩu đứng thứ 3 trên toàn thế giới nhưng Việt Nam có lợi thế rất lớn để cải thiện thứ hạng.

Việt Nam có điều kiện khí hậu thuận lợi cho phép nuôi tôm quanh năm, đặc biệt còn sở hữu một vùng cửa sông rộng lớn như châu thổ Mê Kông với lưu lượng nước đổ ra biển trung bình 13.200 m3/s; mùa lũ có thể lên đến 30.000 m3/s.

Th.S Trình Trung Phi, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt - Úc nhận định, mặc dù là quốc gia có sản lượng tôm xuất khẩu đứng thứ 3 trên toàn thế giới nhưng Việt Nam có lợi thế rất lớn để cải thiện thứ hạng. Ảnh: Tùng Đinh. 

Th.S Trình Trung Phi, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt - Úc nhận định, mặc dù là quốc gia có sản lượng tôm xuất khẩu đứng thứ 3 trên toàn thế giới nhưng Việt Nam có lợi thế rất lớn để cải thiện thứ hạng. Ảnh: Tùng Đinh

Trong khi đó, lưu lượng nước của Sông Rio Guayas chỉ đạt trung bình 1.982 m3/s nhưng đã đóng góp lên đến 83% sản lượng của Ecuador - quốc gia có sản lượng tôm nuôi lớn nhất hiện nay.

Xét về tiềm năng diện tích nuôi, Việt Nam hiện sở hữu tổng diện tích nuôi tôm nước lợ lớn hơn cả Ecuador. Cụ thể, Ecuador chỉ có khoảng 215.611 ha và đã khai thác 100% diện tích này. Trong khi đó, Ấn Độ có 191.882 ha nuôi tôm nước lợ, nhưng đã dành riêng 125.673 ha cho tôm thẻ chân trắng.

Việt Nam chỉ mới sử dụng 120.951 ha cho thẻ chân trắng trong năm 2024, tăng 5.471 ha so với năm 2023 và mới sử dụng 16,41% diện tích cho đối tượng tiềm năng này.

Trong những năm gần đây, thách thức lớn nhất của ngành tôm Việt Nam là vấn đề dịch bệnh. Các bệnh do vi khuẩn có chứa các plasmid độc lực ngày càng tăng, gây ra các bệnh làm tôm chết nhanh ở giai đoạn nhỏ như: Bệnh mờ đục hậu ấu trùng (TPD), hoại tử gan tụy cấp (AHPND)..., ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xuống giống của người nuôi tôm. Cùng với đó, tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu càng làm gia tăng rủi ro và bất ổn trong sản xuất.

Ngoài ra, nhiều bệnh nguy hiểm khác như: Đốm trắng, EHP, phân trắng… vẫn chưa có giải pháp kiểm soát thực sự hiệu quả. Nguyên nhân chủ yếu là do phần lớn người nuôi tôm vẫn hoạt động theo quy mô nông hộ, với điều kiện cơ sở vật chất hạn chế và các biện pháp an toàn sinh học chưa được áp dụng đầy đủ hoặc đúng cách, dẫn đến hiệu quả phòng bệnh không cao.

Giá thành vẫn là rào cản lớn

Theo ông Phi, đến thời điểm hiện nay, có thể nói rằng công nghệ nuôi tôm của Việt Nam không thua bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Điều này được chứng minh qua các kết quả về năng suất và sản lượng.

Tuy nhiên, giá thành vẫn là rào cản lớn đối với các sản phẩm tôm Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường thế giới. Nguyên nhân là do phần lớn nuôi tôm ở nước ta là nông hộ nhỏ lẻ, với quy mô 1 - 3 ha, trong khi mật độ thả nuôi thường cao hơn Ecuador 5 - 10 lần.

Tập đoàn Việt - Úc ứng dụng công nghệ bắn chip điện tử cho tôm bố mẹ phục vụ quá trình theo dõi. Ảnh: Hồng Thắm.

Tập đoàn Việt - Úc ứng dụng công nghệ bắn chip điện tử cho tôm bố mẹ phục vụ quá trình theo dõi. Ảnh: Hồng Thắm.

Do diện tích nuôi nhỏ và mật độ thả nuôi cao, các yêu cầu về an toàn sinh học trong hệ thống nuôi của Việt Nam lại thường không được đảm bảo, khiến việc kiểm soát dịch bệnh gặp nhiều khó khăn. Đây chính là một trong những nguyên nhân đẩy giá thành tôm nuôi của nước ta ở mức cao.

Bên cạnh đó, do thiếu vốn, người nuôi thường phải mua sản phẩm đầu vào qua nhiều khâu trung gian, khiến giá bị đội lên 30 - 40%.

Trong khi đó, các quốc gia như Ecuador có giá thành sản xuất thấp một phần do quy mô trang trại lớn. Trang trại diện tích từ 10 ha trở lên chiếm trên 80% tổng diện tích nuôi. Sản lượng lớn thường đến từ các trại có quy mô 50 - 250 ha với tỷ lệ gần 30% tổng diện tích.

Bên cạnh đó, các sản phẩm đầu vào không qua nhiều khâu trung gian. Đồng thời còn tối ưu được chi phí nhân công và năng lượng.

Thay đổi thể chế, quy định để các viện chuyên ngành có thể phối hợp nhanh chóng với doanh nghiệp

Tập Đoàn Việt - Úc đang giải quyết các khó khăn của ngành tôm thông qua chương trình chọn giống, đưa hàng loạt các nghiên cứu và ứng dụng mới về dinh dưỡng trong khâu sản xuất giống, ương vèo như thức ăn tổng hợp chất lượng cao, artemia, tảo... để có thể đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi từ 100 ngày xuống còn 70 ngày với các ứng dụng về công nghệ cho thức ăn theo yêu cầu, siphon tự động, sử dụng các chế phẩm sinh học có nhiều chức năng về tăng cường miễn dịch và khả năng tiêu hóa của tôm nuôi.

Nhà máy chế biến tôm của Tập đoàn Việt - Úc. Ảnh: Hồng Thắm.

Nhà máy chế biến tôm của Tập đoàn Việt - Úc. Ảnh: Hồng Thắm.

Đối với mảng thức ăn tôm, Việt - Úc đã liên kết với Tập đoàn Biomar hình thành nên liên doanh thức ăn Biomar Việt - Úc để nhanh chóng đưa các nghiên cứu mới của thế giới về dinh dưỡng, tiếp cận các nguồn nguyên liệu cao cấp giá rẻ nhằm tạo ra các sản phẩm chất lượng cao nhưng giá cả hợp lý cho người nuôi.

Việt - Úc cũng luôn tạo ra sân chơi mở để các tập đoàn lớn trên thế giới có thể cùng phối hợp nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp kịp thời cho người nuôi.

Điều mà Việt - Úc mong muốn nhất là Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhanh chóng triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị, thay đổi thể chế, quy định để các viện chuyên ngành có thể phối hợp nhanh chóng với các doanh nghiệp nhằm kịp thời đưa các sản phẩm khoa học công nghệ vào thực tế sản xuất. Đồng thời cùng phối hợp nghiên cứu các vấn đề thực tiễn mà doanh nghiệp thực sự cần, từ đó góp phần thúc đẩy ngành tôm nước lợ phát triển bền vững.

3 đề xuất từ Tập đoàn Việt - Úc về nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số

Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt - Úc Trình Trung Phi cho biết, với việc đầu tư hàng trăm tỷ đồng mỗi năm cho nghiên cứu và phát triển (R&D), Việt - Úc không chỉ mong muốn luôn luôn là đơn vị tiên phong trong ngành tôm giống của Việt Nam với sứ mệnh “Nâng tầm tôm Việt” mà còn là đơn vị ở Việt Nam mang được các sản phẩm có hàm lượng khoa học cao như tôm bố mẹ ra thị trường thế giới. Để hiện thực hóa được khát vọng này, đòi hỏi sự ủng hộ và đồng hành của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các cục, vụ, viện cũng như các đánh giá của Vụ Khoa học và Công nghệ về tính khả thi và rủi ro một cách khách quan.

Để phát triển nuôi tôm công nghệ cao đạt hiệu quả và bền vững, cần tổ chức, quản lý theo mô hình khu công nghiệp - nơi hạ tầng và công nghệ được đầu tư, vận hành một cách đồng bộ và chuyên nghiệp. Để làm được điều này, Nhà nước phải có các cơ chế chính sách hợp lý về đất đai, quyền sở hữu để thu hút nhà đầu tư vào các khu công nghiệp như vậy. Các nhà cung cấp sản phẩm đầu vào, các nhà máy chế biến liên kết chặt chễ chuỗi liên kết để nâng cao hiệu quả cho người nuôi cũng như cho các nhà đầu tư khu công nghiệp nuôi tôm.

Việc giải quyết các mầm bệnh mới, dịch bệnh mới cần có sự phối hợp nhanh chóng giữa các cục chuyên ngành, viện nghiên cứu, trường đại học và cơ quan quản lý địa phương để xây dựng hệ thống bản đồ số. Quá trình này cũng cần có sự tham gia của các doanh nghiệp lớn để cùng nghiên cứu, phân tích và đề xuất các giải pháp phù hợp, kịp thời.

Link nội dung: https://nongnghiepmoitruong.vn/cong-nghe-nuoi-tom-cua-viet-nam-khong-thua-bat-ky-quoc-gia-nao-d752648.html