| Hotline: 0983.970.780

Vướng mắc trong thanh lý tài sản hạ tầng nước sạch nông thôn

Thứ Ba 09/12/2025 , 18:10 (GMT+7)

Thanh lý tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước nông thôn theo Nghị định 43/2022/NĐ-CP đang gặp nhiều vướng mắc, khiến hàng nghìn công trình xuống cấp, bỏ hoang, gây lãng phí ngân sách.

    

Công trình cấp nước sạch tại tiểu khu Bờ xã Đà Bắc, tỉnh Phú Thọ bị bỏ hoang. Ảnh: Yên San.

Công trình cấp nước sạch tại tiểu khu Bờ xã Đà Bắc, tỉnh Phú Thọ bị bỏ hoang. Ảnh: Yên San.

Hồ sơ, định giá và trách nhiệm quản lý chồng chéo

Nghị định 43/2022/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng, khai thác tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước sạch có hiệu lực từ tháng 8/2022 được kỳ vọng tạo khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý thống nhất tài sản công trong lĩnh vực nước sạch. Tuy nhiên, thực tế tại nhiều địa phương cho thấy, khâu thanh lý, chuyển giao, hoặc tái sử dụng công trình cấp nước nông thôn đang vướng ở cả ba cấp: hồ sơ, định giá và xác định chủ thể quản lý.

Theo Bộ NN&MT, hiện cả nước có 18.109 công trình cấp nước nông thôn tập trung. Trong đó, tỷ lệ công trình khai thác trên 22 năm (trước năm 2000) chiếm 4,1%; từ 17÷22 năm chiếm 17,2%; từ 12÷16 năm chiếm 27,5%; dưới 11 năm chiếm 19,4%; công trình không xác định thời gian chiếm 31,8%. Các công trình có thời gian sử dụng trên 22 năm chủ yếu quy mô công suất rất nhỏ và nhỏ.

Một rào cản lớn khác là định giá tài sản công trình. Nghị định 43 yêu cầu xác định giá khởi điểm căn cứ vào giá trị đầu tư trừ khấu hao, nhưng hầu hết công trình nông thôn chưa hạch toán đầy đủ nên không có dữ liệu chuẩn. Định giá thấp thì thất thoát ngân sách; định giá cao lại không ai muốn mua hoặc nhận khai thác vì rủi ro lợi nhuận thấp.

Ngoài ra, trách nhiệm quản lý tài sản cũng chưa rõ ràng. Có nơi công trình do UBND xã đứng tên, nơi khác lại giao cho hợp tác xã, trung tâm nước sạch hoặc doanh nghiệp công ích. Khi thanh lý, không xác định được rõ “chủ tài sản”, dẫn tới tình trạng “đá quả bóng trách nhiệm” giữa các cơ quan, làm chậm tiến độ xử lý.

Thanh lý chậm, công trình bỏ hoang, ngân sách bị khóa

Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước cho thấy, hàng trăm công trình cấp nước ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên đang bị bỏ hoang hoặc hoạt động dưới 30% công suất thiết kế. Trong khi đó, hàng chục nghìn hộ dân vẫn phải dùng nước giếng, nước mưa không đảm bảo vệ sinh.

Theo thống kê của Bộ NN&MT, mỗi năm ngân sách trung ương và địa phương phải chi hàng trăm tỷ đồng để bảo trì, duy tu các công trình không còn hoạt động ổn định. Việc chậm thanh lý khiến nguồn vốn bị “chôn” trong các tài sản không còn sinh lợi, đồng thời cản trở việc huy động xã hội hóa đầu tư mới.

Không chỉ vậy, việc thiếu cơ chế linh hoạt trong xử lý tài sản công cũng làm nản lòng doanh nghiệp. Nhiều nhà đầu tư mong muốn nhận chuyển giao để cải tạo, nâng cấp và vận hành, song quy trình đấu giá, thẩm định kéo dài nhiều tháng, thậm chí vài năm. Khi hoàn tất thủ tục, công trình đã xuống cấp nặng, chi phí sửa chữa đội lên, hiệu quả đầu tư giảm sút.

Một số địa phương như Thanh Hóa, Quảng Nam, Lạng Sơn phản ánh rằng quy định hiện hành chưa phân biệt rõ giữa tài sản cấp nước đô thị và nông thôn, khiến khâu thẩm quyền phê duyệt và giá trị chuyển giao bị chồng chéo. Cấp xã không đủ năng lực chuyên môn, còn cấp tỉnh lại không có bộ hồ sơ đầy đủ để quyết toán.

Hệ quả là hàng nghìn tỷ đồng tài sản hạ tầng đang “nằm im”, không tạo ra giá trị sử dụng, trong khi người dân vùng nông thôn vẫn thiếu nước sạch.

Cụm bồn lọc của công trình cấp nước sạch tại bị bỏ không nhiều năm, hoen gỉ, cỏ dại mọc kín lối đi và nền móng. Ảnh: Yên San.

Cụm bồn lọc của công trình cấp nước sạch tại bị bỏ không nhiều năm, hoen gỉ, cỏ dại mọc kín lối đi và nền móng. Ảnh: Yên San.

Cần cơ chế linh hoạt và minh bạch trong thanh lý

Theo các chuyên gia của Viện Kinh tế Xây dựng (Bộ Xây dựng), muốn tháo gỡ nút thắt trong thanh lý tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước nông thôn, cần đổi mới tư duy quản lý tài sản công, chuyển từ “giữ cho chắc” sang “vận hành hiệu quả”.

Thứ nhất, cần rà soát và số hóa toàn bộ danh mục công trình cấp nước nông thôn, lập cơ sở dữ liệu thống nhất giữa Bộ NN&MT, Bộ Tài chính và Bộ Xây dựng. Đây là điều kiện tiên quyết để xác định giá trị và tình trạng pháp lý khi thanh lý.

Thứ hai, nên trao quyền chủ động hơn cho địa phương. UBND tỉnh có thể phê duyệt phương án thanh lý hoặc giao quyền khai thác đối với công trình nhỏ, thay vì phải trình nhiều cấp trung ương như hiện nay. Với công trình liên huyện hoặc quy mô lớn, cần cơ chế phối hợp liên ngành để tránh chồng chéo.

Thứ ba, cần mở rộng hình thức xử lý tài sản linh hoạt, chẳng hạn:

- Cho thuê khai thác có thời hạn kèm cam kết đầu tư nâng cấp;

- Hợp tác công – tư (PPP) với tỉ lệ vốn góp phù hợp;

- Đấu giá quyền sử dụng tài sản thay vì bán đứt công trình.

Cùng với đó, phải quy định rõ trách nhiệm của đơn vị quản lý và giám sát sau thanh lý. Việc sử dụng tiền thu được từ thanh lý hoặc khai thác tài sản cần được công khai, hạch toán riêng và ưu tiên tái đầu tư cho lĩnh vực nước sạch nông thôn.

Thứ tư, xã hội hóa công tác vận hành cũng là hướng đi bền vững. Thực tế, nhiều mô hình giao doanh nghiệp tư nhân hoặc hợp tác xã quản lý đã chứng minh hiệu quả cao hơn so với cơ chế hành chính thuần túy. Tuy nhiên, để thu hút được nhà đầu tư, cần có quy định rõ ràng, minh bạch và bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước – doanh nghiệp – người dân.

Không để tài sản công "ngủ quên"

Thanh lý tài sản hạ tầng cấp nước nông thôn không chỉ là việc kết thúc vòng đời một công trình, mà là bước khởi đầu cho chu kỳ tái đầu tư mới. Khi các tài sản được xử lý minh bạch, ngân sách được thu hồi, nhà đầu tư tư nhân có cơ hội tham gia, người dân sẽ là đối tượng hưởng lợi cuối cùng với hệ thống cấp nước ổn định, an toàn và bền vững.

Tuy nhiên, nếu các vướng mắc trên không được tháo gỡ sớm, hàng nghìn công trình cấp nước nông thôn sẽ tiếp tục “đắp chiếu”, nguồn lực bị lãng phí, và mục tiêu 100% người dân nông thôn được sử dụng nước sạch theo Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2030 khó đạt được.

Cơ chế, chính sách đã có; điều cần thiết lúc này là một cách tiếp cận linh hoạt, thực chất và dám chịu trách nhiệm trong việc quản lý, thanh lý và tái sử dụng tài sản công. Chỉ khi đó, tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước nông thôn mới thực sự trở thành nguồn lực sống, phục vụ phát triển bền vững nông thôn Việt Nam.

Xem thêm
Có một làng Phố Hiến ở Tây Nguyên

Phạm Thị Thỏa nói, người Phố Hiến ở xã Ia Lâu ai cũng chịu khó làm ăn, lại được Nhà nước chăm lo, do vậy làng Phố Hiến ở đây có không ít người giàu.

Bình luận mới nhất

Vướng mắc trong thanh lý tài sản hạ tầng nước sạch nông thôn
Xã hội 7 giây trước