Thứ bảy 19/04/2025 - 14:15
Biến đổi khí hậu
Việt Nam có nhiều tiềm năng điện gió ngoài khơi?
Thứ Bảy 19/04/2025 - 13:12
Với tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất Đông Nam Á, Việt Nam cần sớm xác định được vùng ưu tiên đầu tư nhằm tạo ra đột phá về năng lượng tái tạo.
- Việt Nam sở hữu 'kho' điện gió ngoài khơi lên tới 1068 GW
- Việt Nam - Singapore hướng tới triển khai dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn
- Điện gió ngoài khơi, điện khí LNG: Cần những chính sách thúc đẩy
Tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất khu vực
Việt Nam được đánh giá có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á. Theo báo cáo “Đánh giá chi tiết tiềm năng tài nguyên gió các vùng ven biển đến 6 hải lý và các khu vực xa bờ ở Việt Nam”, do Cục Khí tượng Thủy văn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) vừa công bố, tổng công suất kỹ thuật điện gió ngoài khơi (ĐGNK) vùng biển nông gần bờ đạt khoảng 475 GW, phù hợp đặt trạng trại gió có tháp turbin cố định. Trong khi đó, vùng biển sâu đạt khoảng 593 GW, phù hợp đặt tháp turbin trên các bè, phao nổi.
Tổng diện tích cả 2 vùng biển nông và sâu có thể phát triển điện gió là hơn 63.000 km2. Riêng vùng biển nông chiếm gần một nửa và có khả năng phát triển thuận lợi công nghệ tháp turbin đặt trực tiếp trên đáy biển, đạt 107 GW (với 42 GW ở vùng biển nông Bắc Bộ và 65 GW ở vùng biển nông phía Nam).

Bản đồ tiềm năng kỹ thuật năng lượng gió vùng biển gần bờ Nam Bộ - khu vực đã được đề xuất 46 dự án điện gió. Ảnh: Cục KTTV.
Sự phân bổ này gắn với biến động gió theo tháng và mùa trong năm, cũng như đánh giá rủi ro thiên tai ảnh hưởng đến hoạt động ĐGNK. Đại diện nhóm chuyên gia, ông Mai Văn Khiêm - Giám đốc Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia nhận định: Tiềm năng kỹ thuật ĐGNK của Việt Nam tập trung trong thời kỳ mùa đông từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau (chiếm 50% tổng năng lượng gió cả năm), tạo điều kiện tối ưu cho khai thác ĐGNK ở miền Bắc và miền Trung.
Gió mùa Tây Nam xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 9, ảnh hưởng chính đến khu vực biển phía Nam, đặc biệt là Tây Nam Bộ. Tháng 12 thường là tháng có mật độ gió cao nhất trong năm trên phạm vi toàn quốc, trong khi tháng 5 và tháng 6 thường là thời kỳ có tốc độ gió thấp nhất. Do đó, nhà đầu tư cần tính toán kỹ thời gian vận hành và bảo trì hệ thống.

Ông Mai Văn Khiêm - Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia. Ảnh: Trung Nguyên.
Về rủi ro thiên tai, bão và áp thấp nhiệt đới tập trung nhiều nhất ở Bắc và Trung Trung Bộ, gây mất an toàn cho trang trại điện gió, đặc biệt vào các tháng 8–10. Gió mạnh cực đoan và sóng cao thường xảy ra vào mùa đông, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận, bảo trì hệ thống điện gió. Các nhà đầu tư ĐGNK cũng có thể dựa trên những phân tích dòng chảy và triều cường trong báo cáo để đánh giá cụ thể từng vị trí lắp đặt chân đế.
Nghiên cứu do Cục Khí tượng thủy văn phối hợp cùng UNDP Việt Nam, Đại sứ quán Na Uy tại Việt Nam đã đưa ra các sản phẩm:
- Bộ dữ liệu và Atlas về gió, tiềm năng năng lượng chi tiết 3x3 km.
- Biến động theo thời gian và không gian của mật độ năng lượng gió từng khu vực biển.
- Tiềm năng kỹ thuật năng lượng gió ngoài khơi.
- Thông tin rủi ro thiên tai khí tượng, hải văn tới hoạt động điện gió trên biển.
Xây dựng bản đồ điện gió “sạch”
Ông Hoàng Đức Cường, Phó Cục trưởng Cục KTTV cho biết, tất cả các tổ chức, cơ quan liên quan đến phát triển ĐGNK đều có thể tham khảo, sử dụng các sản phẩm trong báo cáo trên như dữ liệu đầu vào cho các mục đích khác nhau. Cục KTTV sẽ công bố rộng rãi để các bên có thể tiếp cận, và đề xuất cần xây dựng cơ chế chia sẻ dữ liệu khí tượng, hải văn cho cộng đồng doanh nghiệp và nhà nghiên cứu.
Theo Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, báo cáo tiềm năng kỹ thuật ĐGNK chưa phải là thông tin cuối cùng để xác định khu vực đầu tư. Cục hiện đang phối hợp với Ngân hàng Thế giới thực hiện điều tra, khảo sát, xác định các khu vực biển có tiềm năng ưu tiên phát triển điện gió ngoài khơi. Trước mắt sẽ khảo sát tại khu vực biển từ Ninh Thuận đến Cà Mau.
Trên cơ sở dữ liệu tiềm năng kỹ thuật ĐGNK Việt Nam, sau khi khảo sát, cơ quan quản lý sẽ xác định các vấn đề chồng lấn không gian biển – bao gồm hệ thống cáp quang, khu vực tiềm năng dầu khí, ngư trường khai thác hải sản, luồng di cư của cá và chim biển… Một phần không thể thiếu là đánh giá điều kiện địa chất, thủy văn, động lực học ven biển... để phân định rõ khu vực phù hợp phát triển điện gió móng cố định hay móng nổi. Từ đó mới có thể xây dựng bản đồ điện gió “sạch”, chỉ ưu tiên cho phát triển ĐGNK.
Kết quả cuối cùng sẽ được tích hợp vào Quy hoạch không gian biển quốc gia, làm cơ sở để các tổ chức, doanh nghiệp triển khai bước tiếp theo như khảo sát chi tiết, đánh giá tác động và xác định tổng mức đầu tư cho các dự án ĐGNK.

Việt Nam có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á. Ảnh minh họa.
Để cải thiện chất lượng dữ liệu, TS Dư Văn Toán, Viện Nghiên cứu Biển và hải đảo đề xuất cần thiết lập ít nhất 3 trạm đo gió ở độ cao 100m cho 3 miền Bắc – Trung – Nam. Như vậy sẽ giúp cung cấp dữ liệu chi tiết hơn cho các công ty điện gió, đơn vị mua điện, cũng như các tổ chức tư vấn kỹ thuật. Hiện nay mới chỉ có Thăng Long Wind có đo gió cách bờ 50km, và dữ liệu chưa được chia sẻ.
“Thời gian tới sẽ có nhiều trang trại điện gió hình thành và do đó, rất cần sự phối hợp giữa khu vực tư nhân và nhà nước trong việc chia sẻ dữ liệu, cùng xây dựng một bộ cơ sở dữ liệu thống nhất về tốc độ và năng suất gió tại các vùng biển Việt Nam. Đây là yếu tố then chốt để sớm hình thành một bộ dữ liệu đầy đủ, phục vụ phát triển dài hạn, bền vững ngành năng lượng gió ngoài khơi của Việt Nam”, ông Toán nhấn mạnh.
Link nội dung: https://nongnghiepmoitruong.vn/viet-nam-co-nhieu-tiem-nang-dien-gio-ngoai-khoi-d749121.html