Trạm bơm giữ nhịp nước cho đồng ruộng

Trạm bơm 'kéo' nước qua những nơi kênh dẫn không tự chảy tới, là nơi giữ nhịp sản xuất, nhất là ở những vùng cuối kênh hoặc thời điểm nắng kéo dài bất thường.

Phạm Huy - Võ Hà  | 16:18 07/12/2025

Trạm bơm giữ nhịp nước cho đồng ruộng

Tự động

Trạm bơm giữ nhịp nước cho đồng ruộng

Nội dung: Phạm Huy – Võ Hà

MC 1: Quỳnh Anh

MC 2: Sơn Tùng

GIỮ NHỊP NƯỚC CHO ĐỒNG RUỘNG – HIỆU QUẢ CÁC TRẠM BƠM NÔNG NGHIỆP

MC1

Thưa quý vị và bà con, trong câu chuyện của đồng ruộng, trạm bơm là nơi biến một kế hoạch trên giấy thành dòng nước ngoài thực địa. Là nơi “kéo” nước qua những đoạn địa hình mà kênh dẫn không tự chảy tới. Là nơi giữ nhịp sản xuất – nhất là ở những vùng cuối kênh, hoặc những thời điểm nắng kéo dài bất thường. Và nếu lắng nghe kỹ, tiếng máy bơm không chỉ là tiếng động cơ mà dường như là nhịp thở đều đều của mùa vụ: có tiếng máy chạy, ruộng mới yên tâm giữ nước; có nước, người dân mới dám xuống giống đúng lịch; đúng lịch, cả vụ mùa mới có cơ hội thuận lợi.

MC2:

Vâng thưa quý vị, trong sản xuất, tưới nước cho đồng rộng là điều bắt buộc thực hiện. Song, trạm bơm không thể vận hành theo cách “ai cần thì bơm”, “bơm càng nhiều càng tốt”. Bơm nước cũng cần theo lịch tưới, theo thứ tự vùng, theo khả năng nguồn nước, tình hình thời tiết. Nếu bơm dàn trải, nước thất thoát nhanh. Nếu bơm không đúng thời điểm, ruộng vẫn thiếu mà máy vẫn chạy tốn điện. Ở tuyến quản lý thủy nông số 1, Công ty TNHH MTV Khai thác Công trình Thủy lợi Quảng Ngãi, việc vận hành trạm bơm được tổ chức theo kế hoạch, theo ca kíp và khu vực. Người trực tiếp quản lý, nắm lịch cấp nước và phối hợp vận hành là ông NGUYỄN TẤN NINH – Tổ trưởng tổ quy hoạch kỹ thuật Chi nhánh Quản lý Thủy nông số 1.

 

BĂNG PV 1

MC2: Trạm bơm có kế hoạch, có lịch tưới. Nhưng để kế hoạch không nằm yên trên giấy, cần một thứ rất thật: con người trực ở trạm. Ở trạm, máy móc không tự vận hành “êm” mãi. Có hôm đang bơm thì rác kẹt cửa hút, có hôm áp tụt bất thường, có hôm nước nguồn xuống thấp phải tính lại phương án. Người trực trạm không chỉ biết bấm nút chạy máy, mà còn phải “nghe” tiếng máy, “đọc” mực nước, và biết ruộng đồng đang cần gì. Tại Trạm Quản lý Thủy nông số 1 Bình Sơn, ông ĐOÀN MINH TRUNG người gắn với trạm như gắn với nhịp nước ngoài đồng. Ở đây, mỗi đợt nắng kéo dài là một đợt “căng dây” của trạm bơm. Nước về chậm một chút, ruộng đầu vụ dễ bị đứt nhịp. Nước về không đều, ruộng chỗ đủ chỗ thiếu. Và vì vậy, trạm không chỉ chạy máy, mà còn phải chạy cùng nhịp sản xuất của bà con.

BĂNG PV 2 – Ông ĐOÀN MINH TRUNG (Trạm QLTN số 1 Bình Sơn)

MC 2:

Từ câu chuyện ở trạm mới thấy rõ: hiệu quả trạm bơm không nằm ở chuyện “máy chạy nhiều hay ít”, mà nằm ở chỗ nước về đúng lúc - đúng nơi - đúng nhu cầu. Và để làm được điều đó ở quy mô toàn vùng, cần cách điều hành đồng bộ: phối hợp nguồn nước, lịch thời vụ, kế hoạch tưới, bảo dưỡng thiết bị, phương án vận hành trong hạn, và cả bài toán chi phí điện năng. Trạm bơm càng quan trọng, thì việc tổ chức vận hành càng phải khoa học. Ở góc nhìn điều hành toàn hệ thống, ông NGUYỄN THANH HÙNG – Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác Công trình Thủy lợi Quảng Ngãi cho biết hiệu quả trạm bơm không chỉ đo bằng lưu lượng bơm, mà còn đo bằng tính ổn định của sản xuất và khả năng chủ động trước thời tiết bất thường.

Khi thời tiết biến đổi khó lường, trạm bơm càng giống một “điểm tựa” để nông nghiệp không phải phó mặc hoàn toàn cho thiên nhiên. Nhưng đi kèm với đó là bài toán hiện đại hóa: vận hành tiết kiệm điện hơn, giám sát mực nước tốt hơn, phối hợp lịch tưới chặt hơn, hạn chế thất thoát nước nhiều hơn.

BĂNG PV 3 – Ông NGUYỄN THANH HÙNG (PGĐ Công ty)

MC1: Tiếng máy bơm có khi không ai để ý. Nhưng với người nông dân, đó là tín hiệu của sự yên tâm. Với người thủy nông, đó là trách nhiệm chạy cùng thời vụ. Và với cả hệ thống thủy lợi, đó là một mắt xích giúp nông nghiệp giữ nhịp trong những năm thời tiết thất thường. Khi trạm bơm vận hành hiệu quả, nước về đúng nơi cần, đúng lúc cần… thì đồng ruộng bớt phụ thuộc vào may rủi. Và mùa vụ, vì thế, có thêm một phần chắc chắn.

ĐỐI THOẠI

MC 1: Thưa quý vị và bà con, Trạm bơm, là tiếng máy chạy và dòng nước về ruộng. song nếu nhìn rộng hơn, đây là một “đầu mối điều tiết” trong cả hệ thống thủy lợi: liên quan tới nguồn nước, lịch thời vụ, chi phí điện năng, tổ chức tưới tiêu, thậm chí là khả năng ứng phó khi thời tiết bất thường. Hiệu quả của trạm bơm vì vậy không chỉ là bơm được bao nhiêu khối nước, mà là bơm đúng lúc, đúng nơi, đúng nhu cầu và ít thất thoát nhất. Càng về cuối kênh, càng vào mùa nắng kéo dài, yêu cầu ấy càng trở nên rõ ràng. Ở góc độ quản lý chuyên môn, câu hỏi đặt ra là: làm sao để trạm bơm không chỉ “chạy tốt” trong một vụ, mà còn “đứng vững” qua nhiều năm? Làm sao để vận hành khoa học hơn, tiết kiệm điện hơn, giảm thất thoát nước hơn? Và làm sao để từng bước hiện đại hóa, để trạm bơm thực sự trở thành điểm tựa cho sản xuất nông nghiệp? Về nội dung này, mời quý vị cùng đến với cuộc trao đổi của PV Phạm Huy với ông VÕ ANH TÙNG – Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Quảng Ngãi.

CÂU HỎI:

  • Thưa ông, nhìn tổng thể, trạm bơm đang góp phần như thế nào vào việc đảm bảo nước tưới cho sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, nhất là ở những vùng cuối kênh?
  • Trong thực tế vận hành hiện nay, đâu là những khó khăn phổ biến khiến trạm bơm chưa phát huy tối đa hiệu quả, thưa ông?
  • Từ thực tế vận hành các trạm bơm hiện nay, ông có những kiến nghị gì với UBND tỉnh và các ngành liên quan để nâng hiệu quả cấp nước phục vụ sản xuất?

Tin

MC 2:

Bây giờ, mời quý vị và bà con cùng đến với một số tin vắn về lĩnh vực thủy lợi

MC 1:

Thưa quý vị và bà con, theo Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Chính phủ phê duyệt, đến năm 2030, hệ thống thủy lợi nơi đây bảo đảm cấp và tạo nguồn nước sinh hoạt cho 17-18 triệu người, cấp nước ổn định cho các khu công nghiệp, khu công nghệ cao; giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu nước sinh hoạt ở nông thôn, vùng chịu ảnh hưởng hạn, mặn. Nếu trước đây, công tác quản lý, khai thác và sử dụng nguồn nước vùng ĐBSCL chủ yếu mang tính cục bộ, theo từng tiểu vùng, chưa đồng bộ giữa kiểm soát lũ, chống hạn và ngăn mặn thì với quy hoạch lần này, mọi hoạt động điều tiết nước được đặt trong tổng thể liên vùng, liên lưu vực.

MC 2:

Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Lào Cai vừa tổ chức Hội thảo “Vận động chính sách hỗ trợ phụ nữ tiếp cận nước sạch, vệ sinh, góp phần thực hiện tiêu chí “3 sạch” trong xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2026 - 2035” tại tỉnh Lào Cai. Theo thống kê, hiện toàn tỉnh Lào Cai có khoảng 900.000 người dân nông thôn chưa được sử dụng nước sạch đạt chuẩn; 85% hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh. Mặc dù đã đạt tỷ lệ tương đối cao nhưng toàn tỉnh vẫn còn khoảng trên 59.000 hộ chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh, trong đó có khoảng 19.260 hộ hoàn toàn chưa có nhà vệ sinh. Tại hội thảo, các đại biểu đã thảo luận, đánh giá, làm rõ sự cần thiết của việc đầu tư nước sạch và vệ sinh môi trường với phụ nữ và trẻ em; tầm quan trọng của nước, vệ sinh đối với sự phát triển kinh tế, sức khỏe cộng đồng và an sinh xã hội.

MC 1:

Sau sáp nhập, thành phố Cần Thơ có 82,66% hộ dân nông thôn được cấp nước sạch đạt quy chuẩn. Dù tỷ lệ cao hơn nhiều địa phương Đồng bằng sông Cửu Long, thực tế tại không ít xã ven biển, vùng xa ở Cần Thơ, người dân vẫn gặp khó khi tiếp cận nguồn nước sạch. Giai đoạn 2025 - 2030, Cần Thơ đặt mục tiêu nâng tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch lên 85% (năm 2030). Để đạt mục tiêu, thành phố sẽ tăng cường xã hội hóa, khuyến khích doanh nghiệp và người dân cùng tham gia đầu tư, đảm bảo cấp nước ổn định, bền vững. Sở Nông nghiệp và Môi trường đã giao Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn xây dựng kế hoạch đầu tư các công trình cấp nước sạch giai đoạn 2026 - 2030, nhằm mở rộng độ bao phủ và đáp ứng mục tiêu đã đề ra.

MC 2:

Những năm qua, nguồn vốn chương trình cho vay cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn của Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng giúp nhiều hộ gia đình có điều kiện đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình nước sạch, công trình vệ sinh, góp phần cải thiện môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng dân cư, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, thúc đẩy tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới. UBND xã Nguyên Bình thông tin Riêng chương trình cho vay cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, toàn xã hiện có 121 khách hàng vay với tổng dư nợ 3,4 tỷ đồng. Từ nguồn vốn vay, bà con đã xây dựng được 242 hệ thống công trình nước sạch sinh hoạt và công trình nhà vệ sinh.

MC 1:

Theo thông tin từ Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Trị, toàn tỉnh hiện có 3 đơn vị cấp nước đô thị với 20 nhà máy xử lý nước, tổng công suất thiết kế đạt 140.400 m3/ngày đêm. Bên cạnh đó, 359 công trình cấp nước nông thôn đang cung cấp nước cho người dân ở nhiều địa bàn, cơ bản đáp ứng nhu cầu trước mắt. Tỷ lệ người dân đô thị sử dụng nước sạch từ hệ thống tập trung hiện đạt 85,7%, tương đương hơn 75.800 hộ. Ở khu vực nông thôn, trong tổng số hơn 319.000 hộ dân thì hơn 313.200 hộ đang sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh, chiếm tỷ lệ trên 98%. Số hộ sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn từ tất cả các nguồn đạt gần 68%, trong đó khoảng 118.600 hộ được tiếp cận nước sạch đạt quy chuẩn từ các công trình cấp nước tập trung.

Nội dung… nguồn nước xanh.

Tự động

Trạm bơm giữ nhịp nước cho đồng ruộng

Trạm bơm 'kéo' nước qua những nơi kênh dẫn không tự chảy tới, là nơi giữ nhịp sản xuất, nhất là ở những vùng cuối kênh hoặc thời điểm nắng kéo dài bất thường.

Phạm Huy - Võ Hà

Tin liên quan

Các chương trình

An toàn hạ du mùa lũ - Tăng cường phối hợp, giảm thiểu rủi ro
Đối thoại

Mưa lũ cực đoan đặt ra yêu cầu phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương, bảo đảm vận hành hồ chứa an toàn, kịp thời cảnh báo để giảm thiểu rủi ro hạ du.

An toàn hạ du mùa lũ - Tăng cường phối hợp, giảm thiểu rủi ro
Mỗi hồ đập là một điểm cảnh báo trong mùa mưa bão
Đối thoại

Bình an trong mưa bão sẽ đến khi hệ thống thủy lợi được chăm sóc đúng cách, lực lượng thủy nông được quan tâm đúng mức, người dân đồng lòng giữ hành lang công trình.

Mỗi hồ đập là một điểm cảnh báo trong mùa mưa bão