| Hotline: 0983.970.780

Những trang văn nặng tình của đất

Thứ Ba 09/12/2025 , 09:21 (GMT+7)

Không riêng gì 'Hòn Đất', các tác phẩm của nhà văn Anh Đức đều thấm đẫm chất Nam Bộ, sâu nặng ân tình với đất mẹ, dạt dào cảm xúc quê hương...

Trong dòng chảy văn học hiện đại Việt Nam, đặc biệt là trong nền văn học kháng chiến ở miền Nam sau năm 1954, nhà văn Anh Đức được xem là một trong những cây bút tiêu biểu. Văn chương của ông góp phần khắc họa hình tượng con người Nam Bộ mộc mạc, nghĩa tình, yêu nước, đầy khí phách và có sức chịu đựng phi thường.

Nhà văn Anh Đức thời trẻ. Ảnh: GĐCC.

Nhà văn Anh Đức thời trẻ. Ảnh: GĐCC.

Một người miền Nam viết về miền Nam “Thành đồng Tổ quốc”

Nhà văn Anh Đức, tên thật là Bùi Đức Ái (1935-2014), sinh tại xã Bình Hòa nay thuộc phường Châu Thành, tỉnh An Giang. Trưởng thành trong một gia đình trí thức yêu nước, Anh Đức sớm tham gia phong trào cách mạng. Năm 1950, khi đang làm công tác văn nghệ ở Nam Bộ, nhà văn Anh Đức (lúc này vẫn mang tên Bùi Đức Ái) được nhà văn Đoàn Giỏi phát hiện khả năng văn chương và động viên ông cầm bút.

Năm 1952, với  tập truyện đầu tay “Biển động”, Bùi Đức Ái được giải thưởng văn học Cửu Long Giang và chuyển sang làm phóng viên báo “Cứu quốc Nam Bộ”. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Ông cũng là một trong những thành viên tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1957. Từ đó Bùi Đức Ái chính thức bước vào con đường sáng tác chuyên nghiệp.

Nhưng bước ngoặt trong cuộc đời văn chương của ông, phải kể đến thời điểm ông gặp bà Nguyễn Thị Huỳnh, một phụ nữ từng hoạt động cách mạng ở miền Nam. Tác phẩm “Một truyện chép ở bệnh viện” với nhân vật chính là chị Tư Hậu (nguyên mẫu Nguyễn Thị Huỳnh), xuất bản năm 1958, đã khiến cho tên tuổi của Bùi Đức Ái được công chúng biết đến rộng rãi.

Năm 1962, Bùi Đức Ái quay lại hoạt động ở chiến trường miền Nam với bút danh Anh Đức. Cũng trong thời gian này, ông đến Hòn Đất và thai nghén tiểu thuyết "Hòn Đất" - cuốn tiểu thuyết đã mang về cho ông giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu, góp phần quan trọng đưa Anh Đức trở thành cây đại thụ của văn học miền Nam thời kỳ kháng chiến. Như vậy, những năm tháng cùng đồng bào Nam Bộ chiến đấu là chặng đường có ảnh hưởng quan trọng nhất đến đời văn của Anh Đức.

Nhà văn Anh Đức bước vào văn học cùng thế hệ những cây bút lớn như Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng…, tạo nên diện mạo rực rỡ của văn xuôi kháng chiến miền Nam. Trong tác phẩm “Hòn Đất”, ông đã khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ và người lính trong chiến đấu, trong đó, nhân vật chị Sứ lấy nguyên mẫu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, liệt sĩ Phan Thị Ràng, đã trở thành một hình tượng tiêu biểu cho người phụ nữ miền Nam kiên trung dựng “Thành đồng Tổ quốc”.

Bối cảnh sáng tác của Anh Đức gắn liền với hai giai đoạn lịch sử lớn là kháng chiến chống Mỹ và thời kỳ hậu chiến, đổi mới. Trong mỗi giai đoạn, ông đều giữ được tinh thần nhân bản, nhìn con người bằng ánh sáng của niềm tin chứ không phải sự bi lụy. Chính bối cảnh ấy đã hun đúc nên phong cách đặc trưng của văn chương Anh Đức, giàu tính tự sự, thấm đẫm âm hưởng dân gian và chất trữ tình sâu sắc, phản ánh cả sự bi hùng và chất đời thường của người Nam Bộ. Từ trong khói lửa chiến tranh cho đến thời bình, Anh Đức vẫn kiên trì với tấm lòng thủy chung dành cho đất và người quê hương miền Nam, điều làm nên sức bền lâu dài của văn nghiệp ông.

Tiểu thuyết 'Hòn đất' - tác phẩm góp phần quan trọng đưa Anh Đức trở thành cây đại thụ của văn học miền Nam thời kỳ kháng chiến. Ảnh: HTV.

Tiểu thuyết "Hòn đất" - tác phẩm góp phần quan trọng đưa Anh Đức trở thành cây đại thụ của văn học miền Nam thời kỳ kháng chiến. Ảnh: HTV.

Trở lại với "Hòn Đất", một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học cách mạng miền Nam. "Hòn Đất" ra đời đã gây tiếng vang lớn. Tác phẩm tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân vùng Hòn Đất thuộc tỉnh Kiên Giang (cũ), nay thuộc tỉnh An Giang, với hình tượng trung tâm là chị Sứ, người nữ du kích tiêu biểu cho vẻ đẹp anh hùng, trung hậu, kiên định. “Hòn Đất” vừa mang tính hiện thực sử thi, vừa chứa đựng chất trữ tình sâu sắc, đã trở thành biểu tượng văn học của thời đại. Năm 1983, tiểu thuyết được chuyển thể thành bộ phim cùng tên, do đạo diễn tên tuổi Hồng Sến thực hiện, góp phần khắc sâu tên tuổi Anh Đức trong đời sống văn hóa nghệ thuật Việt Nam.

Sau “Hòn Đất”, Anh Đức tiếp tục khẳng định tài năng với hàng loạt tác phẩm như tập truyện ngắn “Giấc mơ ông lão vườn chim” (1970), tiểu thuyết “Đứa con của đất” (1976), tập truyện ngắn “Miền sóng vỗ” (1985). Mỗi tác phẩm là một lát cắt tinh tế về đời sống, nơi con người hiện lên chân thật, bình dị nhưng giàu phẩm chất đạo đức và sức sống nội tâm. Ở Anh Đức, tính hiện thực xã hội luôn gắn liền với niềm tin nhân văn, vì ông không nhìn người nông dân chỉ qua nỗi nghèo khổ mà còn qua năng lực vượt lên, giữ gìn phẩm giá và nghĩa tình Nam Bộ, đặc biệt là trong thời chiến tranh. Trong các tác phẩm của mình, Anh Đức vẫn trung thành với lối viết giản dị, chắc tay, không khoa trương, luôn đặt con người ở vị trí trung tâm với những tính cách tốt đẹp. Văn chương của ông vì thế giữ được độ ấm của tình người và sự chân thực của đời sống.

Sự nghiệp văn học của Anh Đức được ghi nhận bằng nhiều giải thưởng lớn như giải thưởng văn học Cửu Long Giang năm 1952, Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu, giải nhất truyện ngắn báo Văn nghệ, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm 2000. Nhưng có lẽ phần thưởng lớn nhất là hình tượng những người anh hùng - những người mẹ, người chị, người nông dân Nam Bộ trong tác phẩm của ông, họ không chỉ sống trong trang sách, mà còn sống trong ký ức của nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam.

Những trang văn bắt nguồn từ đất, từ nhân dân

Anh Đức được nhắc đến như người đã tạo nên những “tượng đài tráng lệ về người anh hùng Nam Bộ”, những nhân vật vừa gần gũi với đời sống thường ngày, vừa tỏa sáng tinh thần sử thi của thời đại và phẩm giá con người. Trong văn nghiệp của mình, Anh Đức không chỉ kể lại câu chuyện về chiến tranh và kháng chiến, mà còn mở rộng biên độ đến đời sống hậu chiến, đến những nông dân, người lính, phụ nữ và trẻ nhỏ, những nhân vật bình dị nhưng mang trong mình vẻ đẹp nhân văn sâu thẳm.

Văn chương của Anh Đức trước hết là tiếng nói của một người Nam Bộ chân chất, thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước, tấm lòng son sắt với cách mạng. Ở ông, hiện thực và lý tưởng hòa quyện lẫn nhau, hiện thực cho thấy nỗi gian nan, mất mát, còn lý tưởng đem lại ánh sáng cho niềm tin và nhân phẩm. Trong “Hòn Đất”, hình tượng chị Sứ không chỉ là người nữ du kích kiên trung mà còn là biểu tượng của phẩm giá người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến, vừa kiên cường, vừa dịu dàng, vừa có chiều sâu nội tâm. Anh Đức không thần thánh hóa nhân vật mà ông cho họ sống bằng những cảm xúc thật, biết sợ hãi, nhớ con, thương chồng, nhưng vẫn chấp nhận cái chết vì quê hương. Chính nhờ vậy, các nhân vật của ông vừa mang chất sử thi, vừa gần gũi.

Nhà văn Anh Đức (1935-2014).

Nhà văn Anh Đức (1935-2014).

Không gian tác phẩm của Anh Đức thường là miền Tây Nam Bộ, ruộng đồng, sông rạch, xóm nhỏ, nơi con người gắn bó với thiên nhiên, chịu đựng và vươn lên. Nghệ thuật trần thuật của Anh Đức thiên về tự sự giản dị, mạch lạc, với giọng kể điềm tĩnh nhưng thấm đẫm cảm xúc. Ông thường sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ một cách tinh tế, vừa giữ được hồn phương ngữ, vừa đảm bảo tính phổ thông để độc giả cả nước tiếp nhận. Cách dùng từ mộc mạc mà giàu sức gợi, khiến câu văn có nhịp điệu riêng. Nhiều đoạn miêu tả gần với văn nói, tạo cảm giác thân tình giữa người kể và người nghe. Anh Đức giải thích lối viết của mình như sau: “Tôi nghĩ rằng ta phải cố sao để trang viết được tự nhiên, được hồn nhiên, sao cho vô tư, chân thật, dù có vương chút vụng về. Mình mà viết được tự nhiên, hồn nhiên, chân thật thì người đọc mới tin, mới cảm, mới dễ chịu khi đọc mình”. (“Công việc viết văn”. Trường Viết văn Nguyễn Du xuất bản, 1985, trang 127).

Một nét nổi bật khác là kết cấu trong các tác phẩm của Anh Đức. Nhà văn thường chọn cấu trúc tuyến tính, nhưng luôn cài xen hồi tưởng và đối thoại nội tâm, giúp nhân vật có chiều sâu tâm lý. Ông không chỉ kể một câu chuyện, mà còn dựng nên một không gian đạo đức, nơi con người thử thách bản lĩnh và lòng trung thành. Chính sự kiên định ấy đã làm nên “chất Anh Đức”, một giọng văn điềm đạm, lặng lẽ nhưng giàu sức lay động. Sự nhân hậu là điểm bền vững trong văn chương của ông, dù viết về chiến tranh hay thời bình, ông vẫn nhìn thấy trong mỗi con người những điều tốt đẹp với sức sống âm thầm mà mãnh liệt.

Giá trị lớn nhất trong sáng tác của Anh Đức là tinh thần nhân văn thấm đẫm hiện thực Nam Bộ. Ông không viết để tô hồng chiến thắng hay ca ngợi theo cách hô khẩu hiệu, mà để khắc họa phẩm giá con người trong thử thách, đặc biệt là người dân bình thường. Qua từng trang văn, người đọc cảm nhận được niềm tin bền bỉ của ông vào lý tưởng, vào con người, dù trong những hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt nhất.

Giá trị văn hóa, xã hội trong văn chương Anh Đức nằm ở chỗ ông đã góp phần định hình diện mạo văn học Nam Bộ hiện đại. Ở ông, chất hiện thực kháng chiến hòa quyện với giọng trữ tình dân gian, tạo nên một thứ “ngôn ngữ vùng” độc đáo giản dị, thật thà mà sâu sắc. Ông là một trong số ít nhà văn gắn bó trọn đời với miền đất mình sinh ra, từ đó biến đời sống Nam Bộ thành chất liệu văn học sống động. Nhờ Anh Đức và các đồng nghiệp như Đoàn Giỏi, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng.., văn học miền Nam đã bước ra khỏi giới hạn vùng miền, trở thành một phần quan trọng của văn học dân tộc.

Ảnh hưởng của tác phẩm Anh Đức còn vượt khỏi phạm vi văn học. Hình tượng chị Sứ trong “Hòn Đất” đã trở thành biểu tượng văn hóa, được đưa vào chương trình học phổ thông, được chuyển thể thành phim, kịch. Ở nghĩa rộng hơn, Anh Đức truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ cầm bút trẻ miền Nam về cách viết chân chất bình dị nhưng không tầm thường.

Dẫu sinh thời ông sống lặng lẽ, ít ồn ào, nhưng di sản của Anh Đức vẫn âm thầm tỏa sáng trong đời sống văn học. Nhìn lại hành trình văn học Việt Nam hiện đại, Anh Đức là một trong những cây bút đã góp phần định hình diện mạo của văn xuôi Nam Bộ, một nền văn xuôi vừa mang chất sử thi anh hùng, vừa chan chứa hơi thở đời thường. Văn chương của ông như một bức chân dung tập thể về người Nam Bộ với sự thật thà, kiên cường, anh hùng, nghĩa khí, yêu đời. Và dù thời gian trôi qua, những nhân vật của ông, từ chị Sứ đến ông lão vườn chim, vẫn tiếp tục sống giữa lòng người đọc, như minh chứng cho sức sống bền bỉ của một nền văn học bắt rễ từ đất và hướng về con người. 

Ngày nay, khi chúng ta nói nhiều đến việc bảo tồn ký ức lịch sử và di sản văn hóa vùng miền, những trang viết của Anh Đức vẫn giữ nguyên sức sống, như một lời nhắc rằng văn học chỉ thực sự lớn lao khi nó bắt nguồn từ đất đai sông núi quê hương, từ nhịp đập trái tim của nhân dân và từ tình yêu Tổ quốc vô bờ bến.

Xem thêm
Cà Mau kỷ niệm 85 năm Khởi nghĩa Hòn Khoai, 65 năm kết nghĩa Ninh Bình

Cà Mau Cà Mau tổ chức họp mặt kỷ niệm 85 năm Khởi nghĩa Hòn Khoai, đồng thời kỷ niệm 65 năm kết nghĩa với tỉnh Ninh Bình.

Lộ diện Quán quân ba dòng nhạc Xếp hạng Tiếng hát Việt toàn cầu 2025

Gala Xếp hạng Tiếng hát Việt toàn cầu 2025 đã chính thức khép lại tại Nhà hát Âu Cơ (Hà Nội) với những khoảnh khắc thăng hoa của 17 thí sinh xuất sắc nhất.

20 máy bay không người lái xuất hiện tại Lễ hội Trà Shan Tuyết

Lễ hội Trà Shan Tuyết tỉnh Lào Cai 2025 sẽ mang lại ấn tượng với màn trình diễn 20 drone kết hợp độc đáo giữa công nghệ hiện đại và nét văn hóa bản địa.

Người dân đội mưa nắng giữ chỗ trước 2 ngày xem diễu binh 2/9

Từ sáng 31/8, khu vực ngã tư Hùng Vương - Trần Phú (Hà Nội) đã có đông người tới trải bạt, dựng ô, chờ sẵn để xem lễ diễu binh, diễu hành vào ngày 2/9.

Bình luận mới nhất

Những trang văn nặng tình của đất
Văn hóa - Thể thao 7 giây trước