Thứ năm 29/05/2025 - 04:36
Pháp luật - Bạn đọc
Khái niệm Thềm lục địa
Thứ Ba 16/03/2010 - 10:50
Xin giáo sư cho biết khái niệm về Thềm lục địa?
* Xin cho biết khái niệm về Thềm lục địa?
Lê Hữu Đồng Tuy Hòa, Phú Yên
Thềm lục địa là vành đai mở rộng của mỗi lục địa Trong các thời kỳ băng hà đã là các vùng đất liền còn hiện nay là các biển tương đối nông (còn được biết đến như là các biển cạn) và các vịnh.
Thềm lục địa lớn nhất - thềm lục địa Siberi ở Bắc Băng Dương - kéo dài tới 1.500 kilômét. Biển Đông nằm trên một khu vực mở rộng khác của thềm lục địa, thềm lục địa Sunda, nó nối liền các đảo Borneo, Sumatra và Java với châu Á đại lục. Các biển khác cũng nằm trên các thềm lục địa còn có biển Bắc và vịnh Ba Tư (còn gọi là vịnh Péc xích). Chiều rộng trung bình của các thềm lục địa là khoảng 80 km. Các vùng ven Thái Bình Dương thềm lục địa chỉ rộng khoảng 1,6km hoặc ít hơn. Độ sâu của các thềm lục địa cũng dao động mạnh. Nó có thể chỉ nông khoảng 30 m mà cũng có thể sâu tới 600 m.
* Xin cho biết giá trị dược liệu của cây chìa vôi?
Lý A Phương, Mường Tè, Lai Châu
Chìa vôi còn có các tên khác là Bạch phấn đằng, Rau chua, Đậu sương. Tên khoa học là Cissus moleccoiles, thuộc họ Nho - Vitaceae. Cây nhỏ, mọc leo, dài 2-4m, thân tròn nhẵn, gốc có củ, toàn thân phủ phấn trắng. Tua cuốn hình sợi đơn. Lá đơn, hình dạng thay đổi, thường xẻ thuỳ chân vịt, phía cuống hình tim, dài và rộng đến 6-8cm; những lá phía gốc hình mác gần như nguyên, các lá phía trên chia 5-7 thuỳ dài gần bằng nhau, mép hơi có răng cưa. Hoa màu vàng nhạt, mọc thành ngù đối diện với lá, nhưng ngắn hơn lá và có cuống. Quả nang tròn, 5-6mm, khi chín màu đen. Mùa hoa tháng 4-6, có quả tháng 5-10. Bộ phận dùng: Rễ củ và dây lá.
Cây mọc hoang ở rừng thưa, ven suối, rừng ẩm có ánh sáng. Cũng mọc ở bờ bụi, hàng rào và được trồng ở nhiều nơi vùng đồng bằng. Củ và dây thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa khô. Củ tròn, to bằng quả trứng gà, mấy củ dính liền với gốc cây, hai đầu củ hơi nhọn, ngoài đen, trong trắng. Đào về, rửa sạch ngâm một đêm cho mềm, thái mỏng, phơi khô. Khi dùng đem củ ngâm nước vo gạo, còn dây thì cắt ngắn, tẩm rượu sao. Cũng thường tán bột.
Củ chìa vôi có vị đắng, chua, hơi the, tính mát, có tác dụng thông kinh, phá huyết, trừ tê thấp, lợi tiểu tiêu độc, sát trùng. Nhân dân thường dùng ngọn non và lá nấu canh chua. Củ thường dùng chữa đau nhức xương, đau nhức đầu, tê thấp, gân xương co quắp, sưng tấy, mụn nhọt và chữa rắn cắn. Cũng dùng làm thuốc xổ và nhuận tràng. Ngày dùng 10-30g, sắc uống; có thể ngâm rượu uống. Dùng ngoài không kể liều lượng. Để chữa mụn nhọt sưng tấy, vừa uống trong, vừa giã dây lá với muối đắp ngoài. Để chữa rắn cắn, giã lá với muối, nhai nuốt nước, bã đắp. Có thể phối hợp với chua me đất hoa vàng. Quế chi, gừng, lá trầu không, vôi, giã nát, thêm nước gạn uống, lấy bã đắp.
Ở Lạng Sơn, người ta dùng thân cây chìa vôi rửa sạch, sát trùng rồi dùng nong cổ tử cung sau đó cho uống thuốc kích thích sự co bóp tử cung để gây sẩy thai. Có kết quả nhưng có khi vẫn phải nạo lại, tuy vẫn nhanh hơn. Theo lương y Lê Minh có thể dùng các bài thuốc sau đây: Phong thấp đau nhức xương: Chìa vôi 20g, dây đau xương 15g, rễ lá lốt 15g, nước 500ml, sắc còn 250ml, chia 3 lần uống trong ngày. Bong gân, chấn thương, sưng nề, tụ máu: Lá chìa vôi, lá đau xương, lá thầu dầu tía, ba vị bằng nhau, giã nát, trộn với giấm hoặc rượu (một miếng đắp cần khoảng 20ml giấm hoặc rượu) sao nóng, đắp và bó vào chỗ bị chấn thương, khi khô lại thay miếng khác, làm 1-2 lần trong ngày.
Link nội dung: https://nongnghiepmoitruong.vn/khai-niem-them-luc-dia-d46359.html