Tri thức nông dân
Ghi chép của người Pháp về những trận ‘đại hồng thủy’ ở Bắc Kỳ
Thứ Tư 12/06/2024 - 09:30
Bất chấp những nỗ lực đắp đê ngăn lũ, miền Bắc nước ta đã trải qua nhiều trận ‘đại hồng thủy’ đáng sợ trong những năm đầu thế kỷ XX.
- Thượng úy Cảnh sát giao thông cứu 2 người giữa dòng nước lũ
- Thủ tướng chỉ đạo tập trung khắc phục hậu quả mưa lũ
- Mưa lớn ở Hà Giang: 3 người tử vong

Trận lụt ở tỉnh Bắc Ninh năm 1923. Ảnh: EFEO.
Cách đây gần 100 năm, Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier từng hết lời ca ngợi người Việt trong công cuộc đắp đê chống lũ.
“Người An Nam là dân tộc Hà Lan ở Viễn Đông và nếu trong tương lai xa, do kết quả tiến hóa mà họ không thể dự đoán trước, xảy ra trường hợp dân tộc An Nam bị xóa khỏi bản đồ thế giới, thì dấu vết nền văn minh của họ sẽ tồn tại vĩnh cửu trong các công trình, những kênh đào và đê điều trải dài khắp xứ sở, như ta vẫn còn thấy ngày nay về thế giới cổ đại qua những bờ đê La Mã trở thành chứng tích vĩ đại của đế chế”.
Thế nhưng, bất chấp những nỗ lực đắp đê ngăn lũ, miền Bắc nước ta đã trải qua nhiều trận ‘đại hồng thủy’ đáng sợ trong suốt chiều dài lịch sử.
Vùng châu thổ Bắc Kỳ được hình thành bởi 2 hệ thống sông: hệ thống sông Hồng (gồm 3 sông lớn là sông Đà, sông Thao, sông Lô Gâm) và hệ thống sông Thái Bình (gồm 3 sông lớn là sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam). Địa thế chung của hệ thống sông Hồng rất hiểm trở, phần lớn diện tích là miền núi, địa hình dốc và tập trung nhiều tâm mưa lớn nên khu vực miền núi tập trung lũ nhanh và tạo ra lũ lớn đổ về vùng đồng bằng trong mùa mưa bão.

Bản đồ đê điều Bắc Kỳ. Ảnh: La Dépêche coloniale illustrée.
Sử cũ cho biết trong suốt thời kỳ tồn tại của nhà Lý đã xảy ra tổng cộng 8 lần nước lớn; thời Trần-Hồ đã xảy ra 26 lần lũ lụt, con nước to, chủ yếu vào các tháng 6, 7 và 8.
Từ khi lũ lụt được ghi vào quốc sử thì cũng xuất hiện những thông tin về công cuộc đắp đê, chống lũ lụt của dân tộc Việt Nam. Năm 1077, triều đình nhà Lý cho đắp đê ở sông Như Nguyệt (sông Cầu); đến năm 1108, lại đắp đê Cơ Xá. Đến đời nhà Trần, vua Trần Thái Tông đặt cơ quan chuyên phụ trách về đê điều gọi là Hà đê sứ.
Nhà Trần chăm lo việc đắp đê sông ngăn lũ và đê biển ngăn mặn, đồng thời coi trọng công tác hộ đê, phòng chống lụt. Sau đó, nhà Lê tiếp tục đặt các chức quan Khuyến nông và Hà đê, chuyên trông coi, đôn đốc việc sửa chữa, đắp đê, đào khơi sông ngòi, phòng chống lũ lụt, hạn hán, giải quyết vấn đề nước cho sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, tình hình lũ lụt vẫn xảy ra thường xuyên.
Cuối thế kỷ 18, do chiến tranh loạn lạc, đê điều không được bảo vệ, chăm sóc thường xuyên, nạn vỡ đê vì thế ngày càng trở nên trầm trọng. Dưới thời Nguyễn, từ năm 1803 - 1857, Bắc Kỳ xảy ra 26 đợt lũ, lụt, vỡ đê.

Điếm canh đê ở Phú Xuyên, Hà Đông (nay là Hà Nội).
Thông tin trên báo La Dépêche coloniale illustrée cũng cho biết từ năm 1870 - 1896, có 8 trận lụt do vỡ đê, mỗi trận lụt gây thiệt hại 5.400.000 picul (picul: đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc, tương đương khoảng 50kg) tương đương 372.000 tấn thóc. Nếu tính 6fr30/picul thì thiệt hại đạt 34 triệu phơ-răng. 372.000 tấn thóc này có thể xát được 280.000 tấn gạo xuất khẩu, tạo ra khoảng 1.600.000 phơ-răng cho ngành thuế.
Dưới thời Pháp thuộc, theo thống kê từ năm 1909 - 1930 có 30 trận bão lớn đổ bộ vào Bắc Kỳ, gây mưa lớn và ngập lụt trên phạm vi rộng; đặc biệt là các trận bão lũ năm 1909, 1911, 1913, 1915, 1926 và 1929. Báo La Dépêche coloniale illustrée cho biết thêm về những con số thiệt hại do lũ lụt đầu thế kỷ 20:
Trận lụt năm 1905: Phân bố lượng mưa vào mùa mưa năm 1905 vô cùng bất thường.
Trong các tháng 6, 7 và 8, mưa ở vùng châu thổ không đủ cho mùa màng, nhưng trong tháng 9, mưa lại dồi dào. Mưa gây lụt ở vùng trũng và khiến mùa màng ở nhiều nơi thiệt hại.
Trong tháng 9, mực nước sông Hồng duy trì trên 9m và ngày 4 tháng 10 thêm một đợt lũ khiến nước dâng lên 10m36. Lũ lớn và kéo dài khiến đê vỡ ở nhiều đoạn, nặng nhất là ở: bên hữu ngạn sông Hồng ở Cổ Liêu, tỉnh Hà Đông, ngày 20/7/1905; bên hữu ngạn sông Đuống tại Kim Sơn, tỉnh Bắc Ninh, ngày 14/8/1905.

Hà Nội bị đe dọa trong trận lụt năm 1926.
Đợt vỡ đê ở Cổ Liêu gây lụt ở các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, làm ngập khoảng 36.000ha lúa. Thiệt hại ước tính 4.300.000 phơ-răng. Mặt khác, giao thông giữa Hà Nội và Nam Định bị gián đoạn từ 12/8 - 10/11/1905. Đường sá bị thiệt hại nặng.
Vỡ đê ở Kim Sơn gây ngập 30.000ha lúa ở các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương. Thiệt hại ước tính 3.500.000 phơ-răng. Đường tàu đoạn Hà Nội - Cẩm Giàng bị gián đoạn gần 1 tháng, từ 15/8 - 04/9/1905. Mưa nhiều kết hợp với vỡ đê khiến đợt lũ tháng 10 thiệt hại ở hầu hết các tỉnh Bắc Kỳ.
Trận lụt năm 1909: Ngày 2 tháng 9 năm 1909, mực nước sông Hồng tại Hà Nội đạt 11m07.
Ngày 12/8/1909, đê sông Đuống vỡ ở đoạn qua làng Đặng Xá, tỉnh Bắc Ninh, cách cầu sông Đuống 6km về phía hạ lưu, chiều dài đoạn vỡ đê từ 50 - 60m bất chấp những nỗ lực gia cố trước đó.
Ngày 14, nước bắt đầu rút. Nhưng cũng chính hôm đó, đoạn vỡ thứ hai rộng hơn (250 - 350m) xảy ra ở hạ lưu so với đoạn thứ nhất, giữa các làng Kim Son và Lien Ho, nơi từng vỡ đê vào năm 1905.
Trận vỡ đê sông Đuống liên tiếp gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn đối với mùa màng ở các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương. Đồng thời, việc này cũng khiến đường sắt Hải Phòng - Hà Nội gián đoạn, đoạn từ Phu Thung đến Đình Dù trên chiều dài khoảng 2km. Giao thông ngưng trệ trong gần 1 tháng.
Ở tỉnh Hải Dương, vỡ đê gây thiệt hại mùa màng trên diện tích 6.000ha. Tỉnh Hải Phòng thiệt hại nặng hơn. 1.800ha bị ngập. Thiệt hại ước tính 300.000 phơ-răng. Tỉnh Hưng Yên bị thiệt hại nặng nhất. Ngoài mùa màng ước tính đạt 250.000 phơ răng, nhiều gia cầm và nhà cửa bị cuốn trôi.

Tái thiết đê Gia Lâm năm 1926. Ảnh: EFEO.
Trận lụt năm 1911: Năm 1911 cũng chứng kiến nhiều trận lụt chủ yếu do vỡ đê, đặc biệt ảnh hưởng đến các tỉnh Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bắc Ninh và Hà Nam.
Lũ dai dẳng trong tháng 6, cộng thêm mực nước sông Hồng và các phụ lưu dâng cao bất thường ở nửa sau tháng 7 khiến đê điều suy yếu. Ngày 25/7/1911, nước lũ dâng lên mức 11m27 tại Hà Nội, cao hơn 0.2m so với lũ năm 1909. Đê sông Cầu vỡ nhiều chỗ, Bắc Ninh bị ngập do đê tả ngạn sông Đuống vỡ. Tương tự, hoa màu ở các địa phương bị ngập nước quá 5 - 6 ngày đều mất trắng.
Đến nay, hệ thống đê, kè tiếp tục được cải tạo, nâng cấp, xây mới với việc ứng dụng nhiều công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, lũ lụt vẫn là mối đe dọa thường trực, công tác phòng chống lũ lụt đòi hỏi sự vào cuộc của cả chính quyền và người dân.
Link nội dung: https://nongnghiepmoitruong.vn/tri-thuc-nong-dan/ghi-chep-cua-nguoi-phap-ve-nhung-tran-dai-hong-thuy-o-bac-ky-d389402.html