Theo Trường Đại học Mỏ - Địa chất, để phát triển ngành công nghiệp đất hiếm hoàn chỉnh từ thượng nguồn đến hạ nguồn phải dựa trên một nền tảng vững chắc về chính sách nhất quán và dài hạn, kiến thức khoa học tiên tiến, công nghệ hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là các vấn đề cốt lõi để nâng tầm giá trị tài nguyên Việt Nam và tham gia vào chuỗi cung ứng khoáng sản toàn cầu.
Nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, các chuyên gia hàng đầu từ các trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan quản lý nhà nước và đại diện doanh nghiệp đang sở hữu các mỏ khoáng sản chiến lược rất quan tâm đến việc phát triển ngành công nghiệp đất hiếm. Ảnh: Lan Chi.
Với tiềm năng tài nguyên đất hiếm và khoáng sản chiến lược phong phú, Việt Nam được đánh giá có cơ hội lớn để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khoáng sản toàn cầu. Tuy nhiên, để biến tiềm năng thành sức mạnh, cần một chiến lược bài bản, nhất quán, đồng bộ và kiên định về chính sách, đầu tư cho khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Biến tiềm năng thành sức mạnh
Theo PGS.TS Nguyễn Thế Vinh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên đất hiếm và khoáng sản chiến lược đáng kể, nhưng “tiềm năng không tự chuyển hóa thành lợi thế nếu thiếu năng lực làm chủ công nghệ, thiếu chính sách phát triển đồng bộ và đặc biệt là thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao”.
Ông cho rằng để tham gia thực chất vào chuỗi giá trị khoáng sản toàn cầu, Việt Nam cần vượt qua mô hình khai thác thô giá rẻ, chuyển mạnh sang chế biến sâu và phát triển công nghệ tinh luyện, tách chiết, sản xuất vật liệu chiến lược. “Nếu không đầu tư nghiêm túc vào khoa học - công nghệ và con người, đất hiếm hay khoáng sản chiến lược vẫn chỉ là tiềm năng nằm trong lòng đất”, ông nhấn mạnh.
GS.TS Trần Thanh Hải, Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ - Địa chất, đồng thời là một chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực địa chất - tài nguyên địa chất, có nhiều năm trực tiếp nghiên cứu về khoáng sản hiếm và phóng xạ, khẳng định nhu cầu về khoáng sản chiến lược hay thiết yếu, đặc biệt là đất hiếm, tiếp tục tăng cao trong thế kỷ 21 do yêu cầu cấp bách về phát triển công nghệ cao, chuyển đổi năng lượng, giảm thiểu phát thải khí nhà kính và giảm tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu để đáp ứng các mục tiêu phát triển xanh và bền vững toàn cầu.
Ông phân tích: “Các kim loại thuộc nhóm khoáng sản thiết yếu mang tính chiến lược, trong đó có đất hiếm là các thành phần không thể thiếu đối với sản phẩm công nghệ cao, đặc biệt là trong các thiết bị và linh kiện điện tử, năng lượng tái tạo, công nghệ quốc phòng và hàng không vũ trụ. Chúng là các thành tố không thể thiếu để chế tạo các linh kiện hiệu suất cao như các loại pin năng lượng, nam châm của xe điện, tua bin gió, màn hình của các thiết bị nghe nhìn và xúc tác trong các thiết bị kiểm soát khí thải… những công nghệ then chốt của chuyển đổi năng lượng".
GS. TS Trần Thanh Hải cũng cho biết, do đặc tính phân bố tự nhiên và tập trung đặc biệt và hạn chế của các khoáng sản chiến lược và đất hiểm trong những khu vực đặc biệt của vỏ Trái đất trên thế giới cũng như vai trò không thể thay thế của chúng làm cho việc khai thác, chế biến và cung cấp các khoáng sản này rất hạn chế, chỉ tập trung vào một số quốc gia dẫn đến nhiều thách thức và rủi ro đối với chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu các khoáng sản này đang gia tăng nhanh chóng.
Do đó, việc điều tra và xác định chính xác nguồn tài nguyên, lập danh mục các khoáng sản thiết yếu, chiến lược, phát triển các công nghệ khai thác, thu hồi, chế biến hiện đại và sử dụng khoáng sản một cách hiệu quả nhất là yêu cầu cấp bách và tất yếu để làm chủ nguyên liệu, bảo đảm chuỗi cung ứng và hiện thực hóa việc phát triển nền công nghiệp tự chủ và bảo đảm cho sự phát triển xanh và bền vững.
Hợp lực để khai mở nguồn lực chiến lược cho tương lai
Theo ước tính của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) năm 2024, Việt Nam có trữ lượng đất hiếm khoảng 3,5 triệu tấn. Tuy nhiên, theo dự báo, Việt Nam có thể có tiềm năng đất hiếm lớn hơn, chúng tồn tại trong nhiều thành tạo địa chất trải dài trên toàn bộ lãnh thổ, nhưng chưa được nghiên cứu, điều tra và khẳng định. Tương tự đất hiếm, nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản mang tính chiến lược khác cũng chưa được điều tra đầy đủ, cần được đánh giá chi tiết hơn để xác định quy mô và giá trị thực sự...
Đại diện lãnh đạo Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cho biết các đề án điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản đất hiếm tiếp tục được đẩy mạnh, trong đó loại hình đất hiếm kiểu hấp phụ ion trong vỏ phong hóa rất có tiềm năng, đặc biệt là đối với đất hiếm nhóm nặng và nhóm trung, là các đối tượng đang có nhu cầu cao phục vụ các công nghệ chuyển đổi năng lượng.
Trường Đại học Mỏ - Địa chất đưa ra nhiều gợi mở để Việt Nam biến tiềm năng đất hiếm và khoáng sản chiến lược thành sức mạnh cho phát triển bền vững. Ảnh: Thu Thảo.
Đáng chú ý, đối với loại hình khoáng sản đất hiếm hấp phụ ion, một số công nghệ khai thác hiện đại đang được xem xét thử nghiệm tại Việt Nam. Công nghệ này được đánh giá là thân thiện hơn với môi trường, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực trong quá trình khai thác khoáng sản.
Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu khả quan, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cho rằng ngành đất hiếm và nhiều khoáng sản khác ở Việt Nam đang dừng lại ở mức sơ khởi, manh mún và lạc hậu về công nghệ, thiếu đầu tư cả về quy mô và chiều sâu, thiếu nguồn lực cho đầu tư và phát triển, đặc biệt là hạn chế về nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là các rào cản to lớn ảnh hưởng đến khả năng làm chủ công nghệ, khai thác, thu hồi và quản lý hiệu quả tài nguyên.
Để khắc phục những vướng mắc trên, cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo và hoạt động sản xuất, nơi tri thức được chuyển hóa thành giá trị thực tiễn.
Một vấn đề được nhiều chuyên gia và doanh nghiệp cùng quan tâm là làm thế nào để rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu và sản xuất. Đại diện khối doanh nghiệp cho rằng, các công trình khoa học cần hướng mạnh vào ứng dụng thực tiễn, tạo ra sản phẩm công nghệ có thể chuyển giao nhanh chóng vào sản xuất.
“Khi doanh nghiệp hỏi công nghệ lấy từ đâu, chúng ta phải có câu trả lời cụ thể. Đó là lý do các nhà khoa học cần làm việc gần hơn với doanh nghiệp, để kết quả nghiên cứu không chỉ nằm trên giấy”, đại diện một doanh nghiệp nhấn mạnh.
Các chuyên gia nhận định, để phát triển công nghiệp khoáng sản, đặc biệt là đất hiếm một cách bền vững đòi hỏi một chiến lược và mục tiêu tổng thể, nhất quán về chính sách, một sự đầu tư bài bản và tập trung vào ba trụ cột: đầu tư nghiên cứu từ cơ bản đến ứng dụng và triển khai công nghệ; đào tạo nhân lực kỹ thuật cao và quản lý tài nguyên chuyên sâu; và tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ ở tất cả các khâu thượng, trung và hạ nguồn.
Chỉ khi các yếu tố trên được tích hợp và vận hành đồng bộ, Việt Nam mới có thể tiến tới xây dựng ngành công nghiệp khoáng sản, trong đó có đất hiếm một cách hiện đại, hiệu quả, thân thiện với môi trường và đủ năng lực cạnh tranh và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
















