Phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với bà Lưu Thị Nga, Trưởng phòng Quản lý Công nghiệp - Sở Công Thương Thanh Hóa, về những chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và định hướng chuyển đổi sang sản xuất xanh trên địa bàn tỉnh.
Thưa bà, thời gian qua, để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trong các lĩnh vực ưu tiên như dệt may, giày da, linh kiện điện tử, cơ khí chế tạo, lắp ráp ô tô và công nghệ cao…, tỉnh Thanh Hóa đã triển khai những chính sách, chương trình hỗ trợ cụ thể nào? Việc thực hiện các chính sách này đã mang lại kết quả ra sao, đặc biệt trong gắn kết sản xuất với bảo vệ môi trường?
Bà Lưu Thị Nga, Trưởng phòng Quản lý Công nghiệp - Sở Công Thương Thanh Hóa. Ảnh: Thu Thủy.
Thời gian qua, xác định công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là nền tảng quan trọng để phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tỉnh Thanh Hóa đã chủ động ban hành và thực thi nhiều chính sách, chương trình cụ thể, mang tính dài hạn.
Cụ thể, Sở Công Thương đã tham mưu cho UBND tỉnh trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành hàng loạt nghị quyết quan trọng, gồm Nghị quyết số 29/2016/NQ-HĐND ngày 8/12/2016 về một số chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại tỉnh Thanh Hóa; Nghị quyết số 121/2021/NQ-HĐND ngày 11/10/2021 về việc ban hành chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2022–2026; và Nghị quyết số 23/2025/NQ-HĐND sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 121/2021/NQ-HĐND. Ngoài ra, UBND tỉnh đã ban hành Đề án Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030 tại Quyết định số 506/QĐ-UBND ngày 28/01/2022, định hướng rõ mục tiêu phát triển CNHT gắn với chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu.
Các chính sách này tập trung hỗ trợ doanh nghiệp về hạ tầng, tín dụng, xúc tiến thương mại, đào tạo nhân lực và ứng dụng công nghệ mới. Đến nay đã hỗ trợ về chính sách thuộc lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 43,5 tỷ đồng, trong đó: hỗ trợ đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp 20 tỷ đồng; hỗ trợ thu hút lao động tại các huyện miền núi 4,6 tỷ đồng; hỗ trợ các dự án sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp hơn 17,4 tỷ đồng và phát triển tiểu thủ công nghiệp 1,5 tỷ đồng.
Nhờ đó, công nghiệp hỗ trợ tỉnh Thanh Hóa đã có bước phát triển rõ nét. Nhiều doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại, mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng yếu tố xanh – sạch – tiết kiệm năng lượng trong hoạt động sản xuất. Tỉnh cũng khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản lý môi trường, đầu tư xử lý nước thải, khí thải đạt chuẩn, qua đó vừa nâng cao năng suất vừa bảo vệ môi trường bền vững.
Đặc biệt, chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã tạo điều kiện để các làng nghề truyền thống khôi phục sản xuất, áp dụng công nghệ, máy móc tiên tiến, từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm địa phương. Đây là hướng đi giúp Thanh Hóa không chỉ mở rộng năng lực sản xuất trong nước mà còn tạo nền tảng để tham gia chuỗi cung ứng khu vực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và bền vững.
Bà có thể cho biết rõ hơn về tiềm năng phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay?
Có thể nói, Thanh Hóa là địa phương có tiềm năng rất lớn để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp chế biến – chế tạo đang trở thành động lực chính của nền kinh tế tỉnh.
Trước hết, tỉnh có vị trí địa lý chiến lược, nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, có hệ thống giao thông đồng bộ gồm cảng biển nước sâu Nghi Sơn, đường cao tốc Bắc – Nam, sân bay Thọ Xuân và tuyến đường sắt xuyên Việt. Đây là lợi thế đặc biệt giúp các doanh nghiệp CNHT thuận lợi trong kết nối, vận chuyển nguyên vật liệu và sản phẩm đến các trung tâm công nghiệp lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, cũng như dễ dàng xuất khẩu ra quốc tế.
Thứ hai, Thanh Hóa đã hình thành hệ thống khu kinh tế, khu và cụm công nghiệp phát triển mạnh, nổi bật là Khu kinh tế Nghi Sơn, các KCN Bỉm Sơn, Lễ Môn, Hoàng Long, Lam Sơn – Sao Vàng… Đây là nền tảng quan trọng thu hút các dự án CNHT, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng, thiết bị cơ khí, điện – điện tử.
Thứ ba, tỉnh có lực lượng lao động dồi dào, gần 2 triệu người trong độ tuổi lao động, chi phí cạnh tranh và khả năng thích ứng cao. Những năm gần đây, công tác đào tạo nghề, chuyển giao kỹ năng được chú trọng, tạo điều kiện cho người lao động dễ dàng tham gia vào chuỗi sản xuất công nghiệp hiện đại.
Nhờ các lợi thế đó, từ năm 2016 đến nay, Thanh Hóa đã thu hút nhiều dự án CNHT quy mô lớn. Tiêu biểu như Dự án sản xuất dây cáp điện của Công ty THN Corporation, Xưởng bảo trì, bảo dưỡng, chế tạo PECI Việt Nam của Công ty TNHH PECI Việt Nam (tổng vốn đầu tư 11 triệu USD) tại Khu kinh tế Nghi Sơn. Hay Dự án SAB Industrial (Việt Nam) Co., Ltd tại KCN Bỉm Sơn (vốn đầu tư khoảng 20 triệu USD). Các dự án này không chỉ đóng góp vào tăng trưởng GDP mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa, giúp hình thành mạng lưới sản xuất, cung ứng linh kiện cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.
Ngoài ra, Thanh Hóa còn có lợi thế phát triển CNHT cho ngành dệt may, da giày – lĩnh vực đang thu hút hàng chục doanh nghiệp FDI quy mô lớn. Việc phát triển các nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu, bao bì, phụ kiện… sẽ giúp giảm phụ thuộc nhập khẩu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và tăng sức cạnh tranh cho ngành.
Với định hướng rõ ràng, tiềm năng sẵn có và sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền, ngành công nghiệp hỗ trợ Thanh Hóa hoàn toàn có thể trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị sản xuất khu vực Bắc Trung Bộ và hướng đến vị thế trung tâm CNHT trong tương lai gần.
Thanh Hóa đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất xanh. Ảnh: Thu Thủy.
Trong quá trình chuyển đổi sang sản xuất xanh, thông minh và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, ngành công nghiệp hỗ trợ Thanh Hóa đang gặp những khó khăn, thách thức gì? Và Sở Công Thương có định hướng, giải pháp nào để tháo gỡ, thúc đẩy phát triển bền vững?
Đúng là quá trình chuyển đổi xanh và hội nhập chuỗi cung ứng toàn cầu đang đặt ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp CNHT. Khó khăn lớn nhất là vấn đề tài chính – chuyển đổi sang công nghệ xanh đòi hỏi đầu tư lớn vào máy móc, thiết bị tiết kiệm năng lượng và hệ thống xử lý môi trường hiện đại. Điều này là gánh nặng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa vốn chiếm tỷ lệ lớn trong ngành.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp còn thiếu kiến thức, kinh nghiệm trong việc xây dựng lộ trình chuyển đổi xanh, cũng như thiếu thông tin về thị trường, đối tác và yêu cầu tiêu chuẩn quốc tế. Do năng lực quản lý và trình độ công nghệ còn hạn chế, việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu vẫn chủ yếu dừng ở khâu gia công, giá trị gia tăng thấp. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực – đặc biệt là lao động có kỹ năng số, kỹ năng xanh – vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghiệp hiện đại.
Để tháo gỡ những khó khăn này, trên cơ sở Nghị định số 205/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ, Sở Công Thương Thanh Hóa đang nghiên cứu xây dựng Chương trình phát triển CNHT giai đoạn 2026–2035 phù hợp với điều kiện địa phương, làm nền tảng cho giai đoạn mới.
Cùng với đó, Sở sẽ tham mưu UBND tỉnh trình HĐND ban hành chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2027–2032, trong đó ưu tiên các dự án đầu tư vào công nghệ xanh, năng lượng sạch và sản xuất tuần hoàn. Các chính sách sẽ tiếp tục hỗ trợ tài chính, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại, đổi mới công nghệ, nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
Song song, Sở Công Thương sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp CNHT tham gia các hội chợ, chương trình xúc tiến thương mại trong và ngoài nước để mở rộng thị trường, kết nối đối tác; Tổ chức đào tạo, đào tạo lại kỹ năng xanh và kỹ năng số, gắn kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp để hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao; Khuyến khích hợp tác quốc tế về chuyển giao công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải; Đẩy mạnh truyền thông, tuyên truyền và tổ chức hội thảo nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng và doanh nghiệp về lợi ích lâu dài của kinh tế xanh, sản xuất bền vững.
Thanh Hóa đặt mục tiêu trong giai đoạn tới sẽ hình thành một số cụm doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ xanh, liên kết chặt chẽ với các tập đoàn lớn trong và ngoài nước, đặc biệt là trong lĩnh vực cơ khí, điện – điện tử và dệt may. Đây sẽ là bước đi quan trọng đưa Thanh Hóa trở thành trung tâm CNHT của khu vực Bắc Trung Bộ, đóng góp tích cực vào mục tiêu phát triển công nghiệp bền vững của cả nước.
Xin cảm ơn bà!
UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Công văn số 11362/UBND-THĐT về việc tổ chức phân luồng, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, thủ tục hành chính theo cơ chế ưu tiên “làn xanh”. Theo đó, lĩnh vực đầu tư, doanh nghiệp, vốn được xem là huyết mạch của nền kinh tế, có 19 thủ tục được thực hiện theo cơ chế ưu tiên “làn xanh”, thời gian giải quyết các thủ tục này được cắt giảm từ 33% - 60% so với quy định. Đáng chú ý có những thủ tục được cắt giảm tới 13 ngày làm việc so với quy định, như thủ tục Chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh đối với các dự án khai thác khoáng sản, dự án cụm công nghiệp, dự án trạm biến áp,... được rút ngắn từ 26 ngày làm việc xuống chỉ còn 13 ngày làm việc (tương đương 50% thời gian so với quy định). Đây được xem là một giải pháp mới, sáng tạo, thể hiện quyết tâm phá bỏ những rào cản đang làm khó doanh nghiệp.




























